BẢN TIN NỘI BỘ SỐ 01/2023

Đăng lúc: 10/02/2023 (GMT+7)
100%

3.jpg

HƯỚNG DẪN - CHỈ ĐẠO

“TRÍCH” NGHỊ QUYẾT SỐ 195-NQ/HĐND NGÀY 12/12/2022

CỦA HĐND HUYỆN “VỀ VIỆC HỖ TRỢ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI, ĐÔ THỊ VĂN MINH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NĂM 2023”

Ngày 12/12/2022, HĐND huyện đã ban hành Nghị quyết số 195-NQ/HĐND về việc hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng Nông thôn mới, đô thị văn minh; nội dung cụ thể như sau:

1.Hỗ trợ mua máy gieo mạ, máy cấy phục vụ sản xuất nông nghiệp

a) Đối tượng hỗ trợ:

Tổ chức (doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác), hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, phục vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện.

b) Điều kiện hỗ trợ:

- Máy cấy, máy gieo mạ mua mới; có hóa đơn theo quy định; Hợp đồng, Thanh lý hợp đồng mua bán, trong đó bên mua máy là đối tượng hỗ trợ.

- Có văn bản cam kết phục vụ trên địa bàn huyện tối thiểu 05 năm được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận.

c) Mức hỗ trợ:

Hỗ trợ 20% kinh phí mua máy, nhưng tối đa không quá 100 triệu đồng/01 máy.

d) Thời điểm nhận hỗ trợ:

Năm 2023, sau khi hoàn chỉnh hồ sơ.

2. Hỗ trợ mua thiết bị bay không người lái phục vụ sản xuất nông nghiệp

a) Đối tượng hỗ trợ:

Tổ chức (doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác), hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, phục vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện.

b) Điều kiện hỗ trợ:

- Được cấp có thẩm quyền cấp phép hoạt động theo quy định.

- Thiết bị mua mới; có hóa đơn theo quy định; Hợp đồng, Thanh lý hợp đồng mua bán, trong đó bên mua thiết bị là đối tượng hỗ trợ.

- Trọng lượng cất cánh định mức tối thiểu 40kg (bao gồm pin và bình chứa đầy vật tư nông nghiệp), bình chứa tối thiểu 15 lít, thời gian bay tối thiểu 7 phút (chế độ đầy tải và đến khi xả hết bình).

- Có văn bản cam kết phục vụ trên địa bàn huyện tối thiểu 05 năm, có xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã.

c) Mức hỗ trợ:

Hỗ trợ 20% kinh phí mua thiết bị, nhưng tối đa không quá 100 triệu đồng/01 thiết bị.

d) Thời điểm nhận hỗ trợ: Năm 2023, sau khi hoàn chỉnh hồ sơ.

3. Hỗ trợ xây dựng và chứng nhận sản phẩmOCOP

a) Đối tượng hỗ trợ:

Chủ thể có sản phẩm được công nhận sản phẩm OCOP.

b) Điều kiện hỗ trợ:

Chủ thể có sản phẩm được cấp có thẩm quyền đánh giá phân hạng sản phẩm OCOP năm 2023 đạt từ 3 sao trở lên.

c) Mức hỗ trợ:

- 50 triệu đồng/sản phẩm đạt chứng nhận 3 sao.

- 100 triệu đồng/sản phẩm đạt chứng nhận 4 sao.

- 400 triệu đồng/sản phẩm đạt chứng nhận 5 sao.

d) Thời điểm nhận hỗ trợ:

Sau khi được cấp có thẩm quyền ban hành quyết định công nhận sản phẩm OCOP, phân hạng sản phẩm.

4. Hỗ trợ sản xuất vụ Đông 2023 - 2024

a) Nội dung hỗ trợ:

- Hỗ trợ kinh phí mua giống sản xuất một số cây trồng.

- Hỗ trợ kinh phí thực hiện liên kết sản xuất.

- Hỗ trợ kinh phí chỉ đạo sản xuất vụ Đông năm 2023 - 2024.

b) Đối tượng hỗ trợ:

- Tổ chức (doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác), hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện.

- Ban chỉ đạo sản xuất vụ Đông các xã, thị trấn trên địa bàn huyện.

c) Điều kiện hỗ trợ và mức hỗ trợ: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trồng các loại cây vụ đông là ngô ngọt, ngô sinh khối mà diện tích sản xuất liền vùng, bảo đảm quy mô từ 03ha trở lên: Hỗ trợ 03 triệu đồng/01 ha.

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trồng ngô vụ đông trên đất hai lúa mà diện tích sản xuất liền vùng, bảo đảm quy mô từ 03ha trở lên đối với tổ chức hoặc từ 01 sào (500m2) trở lên đối với hộ gia đình, cá nhân: Hỗ trợ 01 triệu đồng/01 ha.

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trồng các loại cây vụ đông là khoai tây, ớt, đậu tương rau, bí đỏ mà diện tích sản xuất liền vùng, bảo đảm quy mô từ từ 02ha trở lên: Hỗ trợ 03 triệu đồng/01 ha.

- Hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình tổ chức sản xuất, liên kết bao tiêu sản phẩm các loại cây trồng vụ đông trên đất 02 lúa (ngô ngọt, khoai tây, ớt, đậu tương rau, bí đỏ) đảm bảo quy mô từ 03ha trở lên: Hỗ trợ 01 triệu đồng/01 ha.

- Ban chỉ đạo sản xuất vụ Đông các xã, thị trấn mà xã, thị trấn đó đạt chỉ tiêu huyện giao (từ 100% trở lên đối với từng loại cây trồng và từ 100% trở lên tổng diện tích): Hỗ trợ 200.000 đồng/01 ha.

d) Thời điểm nhận hỗ trợ:

Chậm nhất không quá 20 ngày kể từ ngày đoàn liên ngành của huyện kiểm tra.

5. Hỗ trợ đầu tư chỉnh trang, nâng cấp, mở rộng đường giao thông, tường rào, hệ thống điện chiếu sáng,di chuyểncột điện

a) Đối tượng hỗ trợ:

Ủy ban nhân dân xã xây dựng xã nông thôn mới nâng cao và các thôn xây dựng thôn nông thôn mới kiểu mẫu năm 2023 (theo Phụ lục 02, 04 của Kế hoạch 111-KH/BCĐ ngày 17/10/222 của Ban Chỉ đạo các các chương trình mục tiêu quốc gia huyện). Cụ thể:

- Ủy ban nhân dân xã: Thực hiện đầu tư xây dựng hệ thống đường xã, điện chiếu sáng (trên đường xã), di chuyển hệ thống cột điện trên địa bàn.

- Ban phát triển thôn: Thực hiện đầu tư xây dựng hệ thống đường thôn, điện chiếu sáng (trừ đường xã, đường ngõ, xóm); hệ thống tường rào của hộ gia đình phía tiếp giáp với đường giao thông trên địa bàn thôn.

b) Nội dung, điều kiện hỗ trợ:

- Đường giao thông: Các tuyến giao thông nông thôn đầu tư làm mới, nâng cấp đạt quy mô xây dựng nông thôn mới (Chiều dài tuyến giao thông đường xã tối thiểu 200m và đảm bảo chiều rộng mặt đường xã tối thiểu 4,5m; chiều dài tuyến giao thông đường trục chính thôn tối thiểu 100m và đảm bảo chiều rộng mặt đường tối thiểu 4,0m; mặt đường thảm bê tông nhựa dày tối thiểu 4cm, rãnh thoát nước có nắp đậy.

- Tường rào xây của hộ gia đình phía tiếp giáp với đường trục xã, đường liên xã, đường thôn được xây mới theo mẫu (mô hình, mẫu tường rào phù hợp thực tế, do Nhân dân bàn và lựa chọn).

- Đường điện chiếu sáng: Chiều dài tuyến tối thiểu đảm bảo 100m; cột điện bát giác, chiều cao 6m theo tiêu chuẩn, chiều dày thân cột đèn tối thiểu 3mm, khoảng cách giữa các cột từ 25m đến 40m, bóng đèn Led có công suất phù hợp với phạm vi chiếu sáng, tổng công suất tối thiểu 60W.

- Di chuyển cột điện hạ thế nằm trong lòng đường tại trục đường xã, đường trục chính thôn do nhân dân hiến đất mở đường: Đảm bảo cột điện sau khi di chuyển là cột bê tông ly tâm chiều cao cột tối thiểu 7,5m, vị trí lắp dựng cột mới sau khi di chuyển đáp ứng tiêu chí giao thông trong xây dựng xã nông thôn mới nâng cao, tiêu chí xã nông thôn mới kiểu mẫu.

c) Mức hỗ trợ:

- Đường giao thông: Hỗ trợ 250 triệu đồng/km đối với đường xã; 200 triệu đồng/km đối với đường trục chính của thôn.

- Tường rào: Hỗ trợ 150 triệu đồng/km (chiều dài tường rào).

- Đường điện chiếu sáng: Hỗ trợ 50 triệu đồng/km;

- Di chuyển cột điện hạ thế nằm trong lòng đường tại trục đường xã, đường trục chính thôn do nhân dân hiến đất mở đường: Ngân sách huyện hỗ trợ di chuyển cột điện tối đa 8 triệu đồng/vị trí cột nhưng không quá 50% chi phí xây dựng (không bao gồm chi phí tư vấn và chi phí khác).

d) Thời điểm nhận hỗ trợ:

- Ủy ban nhân dân cấp xã phải khảo sát, xây dựng kế hoạch chi tiết đối với các nội dung hỗ trợ (từng tuyến, dự kiến kinh phí...) đăng kí về Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt chậm nhất trong tháng 3/2023.

-Hỗ trợ 70% mức hỗ trợ ngay sau khi Kế hoạch được phê duyệt; 30% còn lại chậm nhất không quá 20 ngày (kể từ ngày đoàn liên ngành kiểm tra).

6.Hỗ trợkinh phí muaxi măngđầu tư kết cấu hạ tầng

a) Đối tượng hỗ trợ:

- Ủy ban nhân dân các xã xây dựng nông thôn mới nâng cao năm 2022 (theo Kế hoạch số 59-KH/BCĐ) chưa được tỉnh hỗ trợ kinh phí mua xi măng hoặc được hỗ trợ một phần (chưa đủ 1.000 tấn xi măng).

- Ủy ban nhân dân các xã xây dựng xã nông thôn mới nâng cao năm 2023 (theo Phụ lục 02 Kế hoạch 111-KH/BCĐ mà không được tỉnh hỗ trợ).

- Ban phát triển thôn (Các thôn nông thôn mới kiểu mẫu năm 2023 theo Phụ lục 02 Kế hoạch 111-KH/BCĐ).

b) Điều kiện hỗ trợ:

Hỗ trợ kinh phí mua xi măng đầu tư xây dựng nâng cấp, sửa chữa đường giao thông, xây dựng hệ thống rãnh thoát nước khu dân cư, trung tâm văn hóa xã, nhà văn hóa thôn, kênh mương nội đồng, chỉnh trang cảnh quan môi trường... hoàn thành yêu cầu theo Bộ tiêu chí xã nông thôn mới nâng cao, thôn nông thôn mới kiểu mẫu.

c) Mức hỗ trợ:

- Xã xây dựng xã nông thôn mới nâng cao năm 2022: Hỗ trợ 1.500 triệu đồng/xã tương đương 1.000 tấn xi măng/xã, nếu xã chưa được tỉnh hỗ trợ; nếu đã được tỉnh hỗ trợ nhưng chưa đủ 1.000 tấn, huyện hỗ trợ bổ sung kinh phí để mua đủ 1.000 tấn xi măng/xã.

- Xã xây dựng xã nông thôn mới nâng cao năm 2023: hỗ trợ 1.500 triệu đồng/xã, tương đương 1.000 tấn xi măng/xã.

- Thôn xây dựng thôn nông thôn mới kiểu mẫu: 150.000.000 đồng/thôn (Một trăm năm mươi triệu đồng)/thôn, tương đương 100 tấn xi măng.

d) Thời điểm nhận hỗ trợ:

Chậm nhất không quá 20 ngày kể từ khi nhận được văn bản đề nghị của xã (Kèm theo kế hoạch sử dụng xi măng: Công trình, khối lượng xi măng sử dụng, thời gian sử dụng).

7. Hỗ trợ xây dựng mô hình thôn thông minh

a) Đối tượng hỗ trợ:

Các thôn thuộc xã xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu năm 2022 và 2023.

b) Điều kiện hỗ trợ:

- Đảm bảo các quy định tiêu chí thôn thông minh tại Quyết định 35/2022/QĐ-UBND ngày 12/8/2022.

- Được Ủy ban nhân dân huyện đánh giá đạt và Sở Thông tin Truyền thông có văn bản thẩm định đạt yêu cầu.

- Có dự án xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số theo lĩnh vực lựa chọn được Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt.

c) Mức hỗ trợ:

50 triệu đồng/thôn.

d) Thời điểm nhận hỗ trợ:

Sau khi dự án hoàn thành, được nghiệm thu và đi vào sử dụng. (Chậm nhất không quá 20 ngày kể từ khi cơ quan có thẩm quyền công nhận).

8. Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng kết cấu tầng đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, nông thôn mớikiểu mẫu, tiểu khu kiểu mẫu năm 2023

a) Đối tượng hỗ trợ:

Xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, thôn đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, tiểu khu đạt chuẩn kiểu mẫu năm 2023.

b) Mức hỗ trợ:

- Xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu: 500 triệu đồng/xã.

- Xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao: 500 triệu đồng/xã.

- Thôn đạt thôn nông thôn mới kiểu mẫu: 100 triệu đồng/thôn.

- Tiểu khu kiểu mẫu: 100 triệu đồng/tiểu khu.

c) Thời điểm hỗ trợ:

Chậm nhất không quá 20 ngày kể từ khi cơ quan có thẩm quyền công nhận.

Nguồn kinh phí thực hiện Đề án phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh trên địa bàn huyện năm 2023, từ nguồn ngân sách huyện.

Ban Biên tập

TIN TỨC- SỰ KIỆN NỔI BẬT

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI, CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THÁNG 01 NĂM 2023

1. Tình hình kinh tế - xã hội

- Sản xuất nông nghiệp:Tập trung chỉ đạo thu hoạch 1.823ha đạt 93% diện tích cây trồng vụ Đông; tuyên truyền, hướng dẫn Nhân dân gieo cấy vụ Chiêm xuân trong khung thời vụ tốt nhất; các biện pháp kỹ thuật chăm sóc, chống rét cho mạ. Đến nay, tỷ lệ mạ đã gieo trên địa bàn toàn huyện là 100%; đã cấy 1.749ha (22%) cây rau màu khác đã gieo trồng 450ha (39%).

-Công tác xây dựng Nông thôn mới:Chỉ đạo các xã triển khai thực hiện xây dựng Nông thôn mới năm 2023. Tiếp tục phối hợp với các Sở, ngành cấp tỉnh thẩm định các tiêu chí cho 02 xã NTM nâng cao (Minh Tâm, Thiệu Phú). Tiếp tục chỉ đạo chỉnh trang cảnh quan, đảm bảo vệ sinh môi trường sáng, xanh, sạch đẹp, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán.

-Sản xuất công nghiệp - xây dựng và dịch vụ thương mại:Giá trị sản xuất ước đạt 168,8 tỷ đồng, tăng 11,3% so với cùng kỳ. Tập trung đôn đốc các nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án trọng điểm, khởi công mới các dự án theo KH đầu tư công năm 2022-2023. Trong tháng 01 thành lập mới 02 doanh nghiệp, đạt 2,5% kế hoạch. Đã thực hiện giải ngân vốn đầu tư công: vốn đầu tư ngân sách huyện từ nguồn tiền sử dụng đất dự toán giao 404 tỷ đồng, đã giải ngân 56 tỷ đồng, đạt 14% dự toán năm 2023.

-Công tác thu, chi ngân sách và quản lý tài nguyên, môi trường:Ước thu ngân sách tháng 01 năm 2023 là 4,03 tỷ, đạt 4% dự toán tỉnh giao, 1% dự toán huyện giao. Chi ngân sách tháng 01/2023 ước thực hiện 75,2 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 9% tỉnh giao, đạt 7% huyện giao, trong đó chi đầu tư phát triển ước thực hiện 42,3 tỷ đồng, đạt 19% tỉnh giao, đạt 8% huyện giao; chi thường xuyên ước thực hiện 32,87 tỷ đồng, đạt 6% dự toán cả năm. Hoạt động tín dụng vay sản xuất, kinh doanh và cho vay ưu đãi các đối tượng chính sách cơ bản đảm bảo phục vụ sản xuất kinh doanh.

Chỉ đạo tiếp tục thực hiện thực hiện thống kê diện tích đất đai năm 2022. Công tác giải phóng mặt bằng các dự án Nhà nước thu hồi đất được chỉ đạo quyết liệt, đến nay tiến độ GPMB các dự án trên địa bàn đảm bảo theo kế hoạch đề ra. Tổ chức đấu giá thành công 16 lô đất tại khu Bù Bà, thôn Đồng Bào; khu Đồng Bảy, thôn Đồng Minh xã Minh Tâm, số tiền thu được là 6,85 tỷ đồng.

- Lĩnh vực Giáo dục và đào tạo:Chỉ đạo các nhà trường trong toàn huyện thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ chuyên môn theo kế hoạch của ngành; tổ chức kiểm tra khảo sát chất lượng cuối kỳ I; hướng dẫn, kiểm tra công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục và tiến độ xây dựng trường chuẩn quốc gia. Kết quả thi học sinh giỏi lớp 9 cấp tỉnh đạt 74 giải, xếp thứ 5/27 huyện, thị, thành phố, trong đó: 02 giải Nhất, 21 giải Nhì, 27 giải Ba, 24 giải Khuyến khích.

- Lĩnh vực Văn hóa thông tin, thể dục thể thao:Tập trung tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; việc thực hiện Chỉ thị 13-CT/TU, ngày 01/12/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Chỉ thị 14-CT/HU, ngày 06/12/2022 của Ban Thường vụ Huyện ủy về tổ chức đón Tết Nguyên đán Quý Mão; tuyên truyền về phong tục tập quán tốt đẹp trong dịp Tết cổ truyền dân tộc và gương người tốt, việc tốt.

- Lĩnh vực y tế:Tiếp tục đẩy mạnh tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19 trên địa bàn huyện. Chỉ đạo các cơ sở y tế thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, trong tháng đã khám 15.254 lượt người, tăng 1,7% so với CK. Công tác y tế dự phòng được tăng cường, tuyên truyền phòng các loại dịch bệnh phát sinh ở thời điểm giao mùa, công tác quản lý vệ sinh ATTP được đảm bảo, đặc biệt trong dịp Tết Quý Mão và mùa Lễ hội Xuân năm 2023.

-Lĩnh vực Lao động - TBXH:Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo UBND huyện, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, phòng Lao động Thương binh và Xã hội, các xã, thị trấn chủ động, tăng cường nắm bắt, kiểm tra tình hình đời sống Nhân dân, chủ động thăm hỏi, động viên, hỗ trợ các hộ chính sách, người có công, hộ gặp hoàn cảnh khó khăn với 22.784 suất quà trị giá 9,72 tỷ đồng. Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo, phân công đoàn công tác đi thăm, kiểm tra tình hình sản xuất, đời sống Nhân dân và tặng quà các gia đình chính sách, cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa, cán bộ chủ chốt của huyện đã nghỉ công tác; viếng nghĩa trang liệt sỹ, đài tưởng niệm liệt sỹ huyện.

2. Công tác quốc phòng - an ninh

Triển khai các phương án trực sẵn sàng chiến đấu, trực phòng không dịp Tết Nguyên đán từ huyện đến cơ sở. Thường xuyên theo dõi nắm chắc tình hình địa bàn không để bị động, bất ngờ. Tổ chức đón nhận 188 quân nhân xuất ngũ trở về địa phương (quân đội 175 quân nhân; công an 13 quân nhân). Tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ Ban CHQS huyện và các xã, thị trấn, thôn đội trưởng, tiểu đội trưởng. Tổ chức phát lệnh gọi nhập ngũ cho công dân nhập ngũ vào công an, quân đội năm 2023; phối hợp chuẩn bị tốt cho Lễ giao quân năm 2023.

Lực lượng Công an từ huyện đến cơ sở tổ chức thực hiện nghiêm các nhiệm vụ, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh nội bộ, an ninh nông thôn, an ninh tôn giáo. Trong tháng, lực lượng công an huyện giải quyết 05 vụ việc liên quan đến an ninh trật tự. Tổ chức ra quân giải tỏa hành lang ATGT, ký cam kết không vi phạm đốt pháo, xây dựng các phương án đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm tai, tệ nạn xã hội.

Các cơ quan khối nội chính đã phối hợp triển khai các hoạt động trên lĩnh vực tư pháp, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án dân sự đảm bảo đúng các quy định của pháp luật. Hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tiếp tục được đẩy mạnh; Công tác tiếp công dân định kỳ tại trụ sở Ban tiếp công dân huyện được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định.

3.Công tác xây dựng Đảng,chính quyền, đoàn thể

-Công tác giáo dục chính trị tư tưởng: Chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức cơ sở đảng, các cơ quan đơn vị tuyên truyền các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng trong quý I năm 2023. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, gắn với kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2023) và mừng xuân Quý Mão. Phối hợp tổ chức kiểm tra nhận thức về Đảng cho 44 quần chúng. Chỉ đạo tuyên truyền, vận động các tập thể, cá nhân sưu tầm, hiến tặng các hiện vật, kỷ vật, tài liệu, văn bản để trưng bày tại khu Di tích Lịch sử Cách mạng - Trụ sở làm việc của cơ quan Tỉnh ủy tại xã Thiệu Viên.

-Công tác tổ chức,cán bộ:Ban Thường vụ Huyện ủy đã điều động, luân chuyển 08 cán bộ thuộc diện quản lý; thống nhất giới thiệu nhân sự, bổ nhiệm, kiện toàn các chức danh cho 05 cán bộ; cho thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đối với 01 cán bộ theo thẩm quyền. Chỉ đạo công tác đánh giá, xếp loại tổ chức cơ sở đảng và cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý năm 2022 theo quy định. Chỉ đạo Đại hội điểm Hội Nông dân và Công đoàn cơ sở, nhiệm kỳ 2023-2028. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ và chính sách cán bộ. Hoàn chỉnh hồ sơ xét kết nạp đảng cho 43 quần chúng và 146 hồ sơ huy hiệu đảng đợt 03/02/2023.

- Công tác kiểm tra, giám sát:Lãnh đạo, chỉ đạo UBKT Huyện ủy, giám sát thường xuyên theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ kiểm tra do cấp ủy giao. Xem xét xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên thuộc thẩm quyền quản lý. Công khai kê khai tài sản thu nhập các đồng chí diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý, báo cáo Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy theo quy định. Thẩm định nhân sự để giới thiệu bổ nhiệm một số chức danh cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý.

- Hệ thống dân vậntích cực tuyên truyền, vận động Nhân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương; chủ động nắm tình hình, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền giải quyết những vấn đề phát sinh, vướng mắc tại cơ sở trong dịp Tết Nguyên đán. Chỉ đạo ban hành kế hoạch về việc xây dựng mô hình “Chính quyền thân thiện vì nhân dân phục vụ”; phê duyệt Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ XDCS và thực hiện QCDC năm 2023. Tổ chức thăm chúc mừng các tổ chức tôn giáo nhân dịp Tết Quý Mão 2023. Tiếp tục rà soát vận động các hộ nghèo sinh sống trên sông đủ điều kiện đề nghị cấp đất ở, hỗ trợ kinh phí xây nhà ở.

- Hoạt động của HĐND - UBND huyệntổ chức thành công kỳ họp thứ 13, kỳ họp chuyên đề bổ sung kế hoạch đầu tư công năm 2023 và quyết định chủ trương đầu tư một số dự án. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để chỉ đạo, điều hành nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền; quan tâm chăm lo đời sống nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán Quý Mão. Chỉ đạo thu hoạch vụ Đông, gieo trồng vụ Chiêm Xuân đảm bảo đúng lịch thời vụ.

-Ủy ban Mặt trận Tổ quốcphối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, các ngành kêu gọi, vận động các các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần tương thân, tương ái giúp đỡ các gia đình nghèo, các đối tượng yếu thế trong xã hội đảm bảo để mọi người, mọi nhà đều được vui Xuân đón Tết.Liên đoàn Lao động huyệntập trung chỉ đạo tổ chức đại hội công đoàn cơ sở nhiệm kỳ 2023-2028; tổ chức “Tết sum vầy - Xuân gắn kết” trao 190 suất quà trị giá 247 triệu đồng cho đoàn viên, người lao động có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.Hội Cựu chiến binh các cấpchỉ đạo các chi hội cơ sở tăng cường vận động hội viên và các gia đình có con, em lên đường nhập ngũ, hoàn thành nghĩa vụ quân sự của công dân góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện; đã triển khai thực hiện mô hình trồng cây mắt ngọc, trước hết ở 5 xã Thiệu Toán, Thiệu Chính, Thiệu Hòa, Tân châu, Thiệu Thịnh.Hội Liên hiệp Phụ nữchỉ đạo trồng thêm được 7,7km đường hoa; vận động xây dựng 73 mô hình nhà sạch - vườn đẹp; phối hợp với Hội LHPN tỉnh và Công ty Bia Hà Nội - Thanh Hóa trao 01 nhà “Mái ấm tình thương” trị giá 50 triệu đồng cho 01 hội viên khó khăn tại Thiệu Công.Hội Nông dânchỉ đạo tổ chức Đại hội điểm Hội Nông dân xã Thiệu Trung; tiếp tục phối hợp dịch vụ phân bón chậm trả cho bà con nông dân sản xuất vụ Chiêm - Xuân 2023; phối hợp với Hội Nông dân tỉnh trao 01 nhà “Tình nghĩa nông dân” tại xã Thiệu Hòa.Huyện Đoànđẩy mạnh tuyên truyền trong ĐVTN về những hành vi liên quan đến sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng pháo, các vật liệu nổ bị cấm; quán triệt triển khai kế hoạch phát triển đảng viên và phối hợp rà soát đối tượng đoàn viên ưu tú giới thiệu cho tổ chức đảng xem xét bồi dưỡng tạo nguồn kết nạp đảng viên.

Trịnh Văn Đệ

HUV, Chánh Văn phòng Huyện ủy

BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG,ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI THÙ ĐỊCH

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN TỰ DO INTERNET Ở VIỆT NAM

Kể từ khi chính thức hòa mạng internet vào năm 1997, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là luôn tôn trọng và bảo vệ quyền phát triển của mỗi người dân, quyền được tự do thông tin, tự do internet. Việt Nam chỉ nghiêm cấm những hành vi lợi dụng hệ thống kết nối toàn cầu này để gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục, đồng thời xác định trong kỷ nguyên số, tự do internet là một trong những tiền đề quan trọng để phát huy dân chủ và phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Dù hòa mạng internet muộn hơn so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, tuy nhiên Việt Nam đã thu về nhiều thành tựu vượt bậc về tốc độ phát triển, là động lực quan trọng để thúc đẩy sự đi lên của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, được bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Tuy nhiên, vì mục đích riêng, vẫn có cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí cố tình phớt lờ mọi nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người, quyền tự do internet, đưa ra những đánh giá phiến diện, định kiến, sai sự thật, bỏ qua những điểm sáng, mặt tích cực để xếp Việt Nam nằm trong danh sách các quốc gia không có tự do internet.

Điển hình là Báo cáo thường niên Freedom on the Net 2022 (Tự do trên mạng 2022) được tổ chức Freedom House (FH) công bố ngày 18/10/2022, trong đó xếp hạng Việt Nam là một trong năm quốc gia kém tự do internet nhất trên thế giới.

Đây không phải là lần đầu tiên FH đưa ra những đánh giá phiến diện, tiêu cực, sai sự thật về vấn đề tự do, dân chủ tại Việt Nam. Ngày 2/6/2022, tổ chức này đã ra cái gọi là “Báo cáo bảo vệ nền dân chủ khi sống lưu vong” với nhiều nội dung xuyên tạc tình hình thực tế của Việt Nam, nổi lên là cáo buộc vô căn cứ “chính quyền đang tiến hành thực hiện đàn áp xuyên quốc gia nhằm bịt miệng người đấu tranh ngay cả khi họ rời quê hương”; “tiến hành tấn công mạng vào các tổ chức hỗ trợ người Việt tị nạn và thúc đẩy nhân quyền”. Vào tháng 3 năm nay, FH cũng xếp Việt Nam ở vị trí áp chót khu vực Đông Nam Á về mức độ tự do. Nhìn lại quá khứ, tổ chức này đã 7 lần liên tiếp cho rằng Việt Nam không có tự do internet.

Tự mô tả mình là “tiếng nói cho dân chủ và tự do trên toàn thế giới”, phương thức đánh giá, tiêu chuẩn xếp hạng của FH cũng như nhiều tổ chức nhân quyền khác lại hoàn toàn trái ngược với tuyên bố của họ. Các báo cáo của FH cho thấy tổ chức này không hề dựa trên các cuộc khảo sát, điều tra xã hội học tại các quốc gia được xếp hạng mà chỉ thu thập thông tin từ những nguồn thất thiệt, không chính thống.

Thêm vào đó, tiêu chí xếp hạng nhân quyền của FH chỉ dựa trên ý chí của một hoặc vài cá nhân, nhưng không hề có cơ sở khoa học. Thậm chí trong giai đoạn 1970-1988, nhiều nhà nghiên cứu và báo chí phát hiện ra rằng Giám đốc Freedom House, Raymond Duncan Gastil đã một mình soạn thảo các báo cáo thường niên Freedom in the World (Tự do trên thế giới) mà không hề có sự trao đổi, bàn bạc với các học giả, nhà nghiên cứu uy tín.

Sau khi tổ chức này thuê một nhóm chuyên gia khác thực hiện báo cáo, tình hình có được cải thiện nhưng FH vẫn vấp phải nhiều sự chỉ trích. Bởi lẽ, các định nghĩa, phương pháp luận của FH về dân chủ có mối liên hệ chặt chẽ với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.

Các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ thường được FH chấm điểm cao hơn so với các nước khác. Hơn nữa, theo ghi nhận của Sarah Sunn Bush, báo cáo của FH có ý nghĩa quan trọng, là nguồn tham khảo với các nhà lập pháp và chính trị gia Hoa Kỳ. Bởi vậy, các quốc gia yếu thế đang tìm kiếm sự hỗ trợ hoặc ưu ái của Hoa Kỳ buộc phải có những động thái mỗi khi FH tung ra các báo cáo mới.

Trên thực tế, không riêng Việt Nam, nhiều quốc gia trên thế giới đã từng gay gắt phản đối các báo cáo về tình hình nhân quyền của FH như Cuba, Trung Quốc, Nga, Sudan, Uzbekistan,… Chẳng những vậy, nhiều tổ chức xã hội dân sự tại Hoa Kỳ cũng thường xuyên lên án FH.

Ngày 16/2/2018, trên website chính thức của mình, tổ chức The Heritage Foundation nhận định: “Không có lý do gì khiến những người theo chủ nghĩa bảo thủ ở Hoa Kỳ và khắp phương Tây phải quan tâm đến các báo cáo của Freedom House vì chúng không khác biệt với những tuyên truyền của Tổ chức Ân xá quốc tế, Tổ chức Theo dõi nhân quyền hoặc các nhóm bình phong của George Soros (tỷ phú người Mỹ gốc Hungary, người bị cáo buộc thường xuyên tài trợ cho các tổ chức nhân quyền vì động cơ chính trị và đảng phái)”.

Tại Việt Nam, tháng 3/2021, hàng chục nghìn tài khoản facebook đã truy cập vào fanpage của FH để phản đối tuyên bố “Việt Nam không có tự do internet” do tổ chức này đưa ra. Trong đó, nhiều người đã thẳng thắn đề xuất FH nên để cho chính người Việt Nam chấm điểm về tự do trên internet của đất nước mình. Dù vậy, FH đã bỏ ngoài tai những yêu cầu chính đáng của nhân dân Việt Nam để tiếp tục tung ra các luận điệu xuyên tạc sự thật qua những báo cáo mới đây.

Cách đây khoảng ba thập kỷ, việc hòa mạng internet từng là “thử thách rất lớn trong quá trình đổi mới bởi đây là vấn đề rất nhạy cảm” (theo nhận định của ông Mai Liêm Trực, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện). Bởi lẽ, quá trình đưa internet vào Việt Nam không chỉ đòi hỏi sự nâng cấp đáng kể về mặt cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mà còn yêu cầu sự đổi mới tư duy của nhà làm luật.

Tại thời điểm ấy, còn tồn tại nhiều luồng ý kiến e ngại về việc hòa mạng toàn cầu có thể dẫn đến nguy cơ gây mất an ninh quốc gia. Mặc dù vậy, trong giai đoạn 1997-2008, bất chấp nhiều khó khăn, thiếu thốn và hạn chế khi mới hòa mạng toàn cầu, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm và phát huy quyền tự do của người sử dụng dịch vụ internet. Tiêu biểu như Nghị định số 55/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/8/2001 về Quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet đã khẳng định không ai được ngăn cản quyền sử dụng hợp pháp các dịch vụ internet (Điều 9).

Hay Nghị định số 97/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28/8/2008 về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet đưa ra hàng loạt chính sách phát triển internet quan trọng như: khuyến khích việc ứng dụng internet trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội để nâng cao năng suất lao động; mở rộng các hoạt động thương mại; Thúc đẩy việc ứng dụng internet trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, trường học, bệnh viện, các cơ sở nghiên cứu, đưa internet đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; hỗ trợ cải cách hành chính, tăng tiện ích xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và bảo đảm an ninh, quốc phòng; Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp và sử dụng dịch vụ internet, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn pháp luật về internet.

Có biện pháp để ngăn chặn những hành vi lợi dụng internet gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục, vi phạm các quy định của pháp luật và để bảo vệ trẻ em khỏi tác động tiêu cực của internet; Phát triển internet với đầy đủ các dịch vụ có chất lượng cao và giá cước hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (khoản 1, 2, 3, 4 Điều 4 Nghị định).

Còn tại Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/7/2013 về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng nhấn mạnh người sử dụng internet có quyền được sử dụng các dịch vụ trên internet trừ các dịch vụ bị cấm theo quy định của pháp luật (khoản 1, Điều 10).

Bên cạnh đó, từ quan sát và phân tích sự tăng trưởng về lượng người sử dụng internet tại Việt Nam và thế giới, các nhà hoạch định chính sách, nhà lập pháp đã nhận ra mối liên hệ mật thiết giữa quyền tự do trên internet với quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền riêng tư trên không gian mạng,...

Từ đây, Quốc hội cùng các cơ quan chức năng đã tổ chức xây dựng các giải pháp pháp lý phù hợp nhằm bảo đảm các quyền này cũng như phòng, chống, ngăn chặn các hành vi lợi dụng tự do trên internet gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục. Đây là cơ sở để hình thành một hệ thống văn bản pháp luật tương đối hoàn chỉnh của Việt Nam về internet nói riêng, an ninh mạng nói chung như: Luật Viễn thông, Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng,...

Qua đó, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng được một hành lang pháp lý quan trọng, góp phần tạo ra một môi trường mạng lành mạnh, an toàn, phát huy quyền tự do, dân chủ của công dân. Song song với quá trình hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật phù hợp sự phát triển của internet tại Việt Nam, Chính phủ đã phê duyệt hàng loạt đề án phát triển internet với các chỉ tiêu phát triển cụ thể theo từng giai đoạn.

Theo Báo cáo mới đây của Bộ Thông tin và Truyền thông, trung bình cứ 100 người dân Việt Nam có 83 thuê bao internet di động, trong khi thuê bao cố định là 21. Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam 2022 của Bộ Công thương cho thấy người Việt dành 6 giờ 38 phút mỗi ngày để truy cập internet. Đây đều là những thống kê cao hơn mức trung bình của thế giới. Việt Nam cũng nằm trong nhóm các quốc gia có giá cước internet rẻ nhất thế giới. Hiện tại, Việt Nam có 1.952 trang thông tin điện tử tổng hợp và 935 mạng xã hội trong nước đã được cấp phép hoạt động, là những diễn đàn trực tuyến để người dân có thể tự do chia sẻ, bày tỏ thông tin, quan điểm cá nhân.

Thực tế nêu trên cho thấy quyền tự do trên internet tại Việt Nam luôn được bảo đảm, phát huy, trái với luận điệu xuyên tạc của một số cá nhân, tổ chức không thiện chí. Không những vậy, là một đất nước văn minh, dân chủ, tiến bộ và thân thiện, Việt Nam luôn sẵn sàng hỗ trợ và tạo điều kiện để các cá nhân, tổ chức quốc tế có thể tìm hiểu, nghiên cứu một cách trung thực, khách quan về công tác bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, bao gồm quyền tự do trên internet, tự do ngôn luận, tự do báo chí trên không gian mạng.

Ban Biên tập


HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUỐC PHÒNG TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

Trong di sản quân sự Hồ Chí Minh, tư tưởng về tăng cường, củng cố quốc phòng giữ một vị trí hết sức quan trọng, có mối quan hệ biện chứng và thống nhất với toàn bộ tư tưởng của Người.Trongnhiềubài nói,bàiviết củaHồ Chí Minhvề quân sự cho thấy,chưa khi nàoNgườitách rời quân sự với các lĩnh vực khác và coi quân sự độc lập “đơn thuần”, mặc dù đó là một lĩnh vực rất đặc thù. Đồng thời, Người luôn nhận thức sâu sắc và giải quyết thành công các mối quan hệ đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong xây dựng quân đội cách mạng.Luôn coi lợi ích của nhân dân là đối tượng, nên Người xác định mục tiêu của tăng cường, củng cố quốc phòng không chỉ bảo vệ Tổ quốc, mà còn bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ nhà nước cách mạng, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Người chỉ rõ: “Chế độ này là của ta, phải bảo vệ chế độ của ta. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là của ta, phải bảo vệ Nhà nước của ta. Ai xâm phạm đến Nhà nước của ta, đến chế độ ta, ta phải chống lại họ, bất cứbằng lời nói hay việc làm”.TrongTuyên ngôn độc lập, Người tuyên bố: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.

Hiện nay, thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo.Trong tình hình đó, chúng ta cần vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường, củng cố quốc phòng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó cần thực hiện một số nội dung trọng yếu sau đây:

Một là,tăng cường, củng cố quốc phòng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước.

Tăng cường, củng cố quốc phòng phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng là nguyên tắc bất di, bất dịch của cách mạng Việt Nam.Trong tình hình mới, sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội và sự nghiệp củng cố quốc phòng là nguyên tắc được hiến định trong Hiến pháp. Đồng thời, là bài học kinh nghiệm được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam khẳng định. Sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng được thực hiện bằng phương thức tổ chức sự lãnh đạo chặt chẽ, khoa học, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”; “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”.

Thường xuyêntuyên truyền, giáo dụcgiáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh vềcủng cố quốc phònglà vấn đề cần thiết, quan trọng trongxây dựngvàbảo vệ Tổ quốchiện nay.Đồng thời,đấu tranh chống lại những luận điệu phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp tăng cường củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Hai là,tăng cường, củng cố quốc phòng phải theo hướng tích cực, chủ động, toàn dân, toàn diện, ngày càng hiện đại.

Dựng nước đi đôi với giữ nước là một truyền thống quan trọng và là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam, được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo trong điều kiện mới. Người chỉ rõ: “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng”; “Vấn đề củng cố quốc phòng rất là quan trọng, chớ không phải hòa bình rồi là không cần củng cố quốc phòng”.

Luôn ý thức được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minhkhẳng định: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”. Như vậy, sức mạnh giữ nước vô địch chính là sức mạnh của toàn dân, cả quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa chứ không đơn thuần là sức mạnh quân sự, sức mạnh của các lực lượng vũ trang.

Xuất phát từ vị trí, vai trò của quần chúng Nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Toàn thể Nhân dân, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng và nghề nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự và ra sức ủng hộ chính quyền nhân dân, thật thà hợp tác với quân đội Nhân dân”; “Quân đội và công an phải dựa vào Nhân dân mới hoàn thành được tốt”. Chỉ có dựa trên nền tảng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, thì sự kết hợp giữa quân đội với công an mới tạo được thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân rộng lớn.

Cùng với công tác giáo dục, tuyên truyền và tổ chức Nhân dân tham gia có hiệu quả vào các hoạt động bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh coi sự đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo có ý nghĩa rất quan trọng trong tăng cường, củng cố quốc phòng.Người nhấn mạnh: Đoàn kết là để “diệt lũ ác ma”, để “đấu tranh giành lại thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”, để xây dựng xã hội mới tốt đẹp; “Các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ muôn người như một, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Chú trọng giúp đỡ đồng bào vùng cao và làm tốt công tác an ninh trật tự, củng cố quốc phòng”.Đoàn kết không phải là kêu gọi, hô hào chung chung, mà phải có mục tiêu, nội dung cụ thể, phải hướng vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng trong mỗi giai đoạn. Đoàn kết để xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân,toàn diện, từng bước hiện đại.

Nhà nước Việt Nam củng cố nền quốc phòng toàn dân không để đe dọa hoặc làm phương hại đến an ninh của bất cứ quốc gia nào. Đây là sự khác biệt lớn giữa nền quốc phòng Việt Nam với nền quốc phòng của một số quốc gia khác trên thế giới.

Theo đó, xây dựng lực lượng quốc phòng là xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị và các tổ chức khác trong đời sống xã hội; xây dựng các cộng đồng dân cư; xây dựng Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân, Dân quân tự vệ đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng.Xây dựng tiềm lực quốc phòng dựa trên nền tảng tổng hợp của các tiềm lực cơ bản như tiềm lực chính trị - tinh thần; tiềm lực kinh tế; tiềm lực khoa học công nghệ; tiềm lực quân sự. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân là việc tổ chức, triển khai, bố trí lực lượng và tiềm lực quốc phòng trên toàn bộ lãnh thổ theo ý định chiến lược thống nhất, bảo đảm đối phó thắng lợi mọi âm mưu và hoạt động xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia - dân tộc.

Nền quốc phòng Việt Nam củng cố theo hướng ngày càng hiện đại, nhưng kiên quyếtphản đối các hoạt động chạy đua vũ trang; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các quốc gia khác trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Đồng thời, Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế...

Ba là,tăng cường, củng cố quốc phòng phải gắn chặt chẽ với kinh tế, an ninh, đối ngoại và các lĩnh vực khác.

Từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thiết lập đến nay, quốc phòng, an ninh và đối ngoại luôn được kết hợp chặt chẽ.Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi”. Để có điều kiệnhuy động cho nhiệm vụ quốc phòngthì “cần phát triển sản xuất nông nghiệp và đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp; phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp, từng bước nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”.

Theo Hồ Chí Minh, quân đội phải tham gia xây dựng kinh tế để góp phần phát triển kinh tế, giảm bớt một phần đóng góp của Nhân dân.Đồng thời, Người yêu cầuphải “đẩy mạnh công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học và kỹ thuật một cách có trọng điểm, có từng bước vững chắc, nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ quốc phòng”.Đảng ta luôn xác định kết hợp quốc phòng, an ninh và đối ngoại là một nội dung trong phương hướng, nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.Quốc phòng và an ninh bảo đảm cho đất nước giữ được môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế, tạo điều kiện mở rộng hội nhập quốc tế, thực hiện hiệu quả đường lối đối ngoại. Thực hiện tốt quan hệ đối ngoại sẽ góp phần giữ vững môi trường hòa bình, khai thác các nguồn lực quốc tế để tăng cường quốc phòng, an ninh;tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân...

Theo đó,tăng cường củng cố quốc phòng phải đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhằm khai thác những yếu tố tích cực, hạn chế những nhân tố tiêu cực, góp phần to lớn vào việc bảo vệ chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Hoạt động đối ngoại cần mở rộng quan hệ song phương, đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực, góp phần làm thất bại âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch. Đồng thời, khắc phục những khó khăn về vốn, công nghệ, kỹ thuật, giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng.

Bốn là,tăng cường, củng cố quốc phòng có trọng tâm, trọng điểm và kiểm tra, giám sát chặt chẽ.

Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là:“bảo vệ vững chắc độclập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”. Tăng cường, củng cố quốc phòng của Việt Nam mang tính chất:“hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược”.

Do đó, tăng cường,củng cố quốc phòng toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm phải đi liền với kiểm tra, giám sát chặt chẽ, để không ngừng củng cố và xây dựng“một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại”.Tăng cường sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước trong kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; phòng, chống có hiệu quả tham nhũng, lãng phí. Tăng cường, thực hiện có nền nếp chế độ sơ kết, tổng kết, phát hiện những vấn đề nảy sinh, tìm tòi những con đường, biện pháp tối ưu để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.

Ban Biên tập

HỘI NÔNG DÂN XÃ THIỆU TRUNG

VỚI CÁC PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC

Nhằm phát động các cuộc thi đua yêu nước, đẩy mạnh xây dựng xã nông thôn mới kiểu mẫu, Hội Nông dân xã Thiệu Trung đã tập trung tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của Hội và của địa phương, đặc biệt là các chính sách liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Thông qua công tác tuyên truyền, vận động, đã khẳng định và phát huy vai trò chủ thể của hội viên, nông dân trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới. Với nhiều hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú, dễ tiếp cận, nội dung tuyên truyền ngắn gọn, xúc tích, dễ nghe, dễ hiểu, như: thông qua hội thi, hội nghị, tọa đàm, sinh hoạt câu lạc bộ, trên hệ thống loa truyền thanh, trên mạng xã hội… Phối hợp với các cơ quan báo, tuyên truyền các gương điển hình, các mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Cán bộ Hội thường xuyên bám sát cơ sở, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của hội viên, Nhân dân để có biện pháp hiệu quả trong công tác tuyên truyền, công tác tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Trong nhiệm kỳ qua, Hội Nông dân xã Thiệu Trung đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Hội Nông dân xã lần thứ VII và triển khai thực hiện nghị quyết đến 100% chi hội và hội viên nông dân; cụ thể hóa các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội thành các chương trình, kế hoạch hoạt động trọng tâm để triển khai thực hiện.

Công tác phát triển hội viên được Hội triển khai thực hiện phù hợp với tình hình nông dân trong giai đoạn hiện nay; Hội đã có biện pháp tập hợp hội viên thành các tổ, nhóm sản xuất, vay vốn, tiết kiệm, câu lạc bộ nông dân với pháp luật… Trong 5 năm qua, Hội đã kết nạp mới 135 hội viên. Đến nay, toàn xã có 875 hội viên tham gia sinh hoạt hội, chất lượng hội viên được nâng lên. 100% chi hội đạt khá và vững mạnh, không có chi hội yếu kém. Các chi hội đã thường xuyên duy trì, nâng cao hiệu quả sinh hoạt định kỳ, tổ chức sơ kết, tổng kết, thi đua khen thưởng kịp thời. Công tác xây dựng quỹ hội được quan tâm, có 100% chi hội xây dựng được quỹ hội do hội viên tự nguyện đóng góp, việc quản lý và sử dụng quỹ Hội thực hiện qui định theo nghị quyết của Đại hội đề ra. Hằng năm, căn cứ nhiệm vụ được giao, Hội đã xây dựng kế hoạch triển khai, phát động thi đua, giao chỉ tiêu cho từng chi hội và tổ chức đăng ký thi đua đến cán bộ, hội viên nông dân. Hàng năm và hàng kỳ, kịp thời khen thưởng, biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác hội và phong trào nông dân.

Trong nhiệm kỳ qua, Hội Nông dân xã Thiệu Trung luôn đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả “Phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp của chính quyền, Hội Nông dân xã đã tổ chức chỉ đạo phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, gắn kết với các phong trào khác ở địa phương, như: Phong trào xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư, xây dựng thôn kiểu mẫu, các chương trình giảm nghèo, xây dựng quĩ nhân đạo, từ thiện… Thông qua phong trào, đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh giỏi, có mức thu nhập từ 200 triệu đồng đến 3 tỉ đồng/năm và tạo nhiều việc làm cho người lao động.

Song song với các phong trào thi đua, Hội Nông dân xã còn làm tốt công tác vận động, hướng dẫn, hỗ trợ nông dân tham gia phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Tuyên truyền đến hội viên nông dân các mô hình kinh tế hợp tác, hộ sản xuất kinh doanh hiệu quả. Đã vận động chuyển đổi 09 đất lúa kém hiệu quả sang trồng các loại cây, vật nuôi có giá trị kinh tế cao hơn. Hội đã phát huy tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo của hội viên nông dân trong lao động sản xuất, vận động cán bộ, hội viên nông dân tích cực tham gia các hoạt động thiết thực, hiệu quả; như: đã vận động các hộ trồng 30 chậu hoa tuyến đường làng nghề và ao cá Bác Hồ; xây dựng mô hình và chăm sóc hoa tại khu lăng mộ Nhà Sử học Lê Văn Hưu; xây lắp hơn 100 bể chứa bao bì rác thải thuốc bảo vệ thực vật tại các xứ đồng; vận động các hộ hiến 355 mét vuông đất mở rộng đường giao thông nông thôn… Góp phần hoàn thành 15 tiêu chí xã NTM nâng cao và 03 thôn đạt NTM kiểu mẫu. Các hoạt động tư vấn, hỗ trợ, dịch vụ, dạy nghề cho nông dân đã được Hội quan tâm đổi mới và nâng cao hiệu quả. Trong nhiệm kỳ qua, Hội đã phối hợp với doanh nghiệp bán phân chậm trả cho nông dân được 180 tấn, tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi; thường xuyên tư vấn về việc làm và xuất khẩu lao động; đã giúp 04 hộ nông dân vay vốn xây dựng 04 dự án đạt hiệu quả cao, trong đó có 01 dự án nuôi ốc, 03 dự án nuôi bò sinh sản. Thông qua phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, hằng năm, đã bình xét 200 hộ đạt danh hiệu hộ sản xuất kinh doanh giỏi các cấp.

Công tác xây dựng Đảng luôn được Hội Nông dân xã Thiệu Trung quan tâm, chỉ đạo. Trong nhiệm kỳ qua, Hội đã bồi dưỡng, giới thiệu 01 hội viên ưu tú tham gia lớp cảm tình và đã kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Cán bộ Hội tham gia sinh hoạt Hội đều, nêu cao tinh thần tiên phong gương mẫu, dẫn đầu trong hoạt động của Hội, xứng đáng để hội viên nông dân noi theo. Với công tác đảm bảo an ninh trật tự địa phương, Hội cũng đã làm tốt công tác tuyên truyền, xây dựng những giải pháp cụ thể, như: Hỗ trợ cán bộ, hội viên, nông dân tham gia công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn trong mọi tình huống. Chủ động phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể, công an, quân sự tuyên truyền và thực hiện có hiệu quả xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, nâng cao ý thức tự giác, tự phòng ngừa, tự quản trong hội viên và nông dân. Duy trì và phát triển mô hình chi hội gắn với tổ an ninh tự quản, tuyến đường hội viên nông dân tư quản. Vận động con em hội viên thực hiện tốt Luật Nghĩa vụ quân sự, tích cực tham gia học tập, huấn luyện, tham gia lực lượng dân quân tự vệ, tích cực phòng chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội.

Phát huy thành tích, kết quả đã đạt được thời gian qua, để thiết thực lập thành tích chào mừng Đại hội Hội Nông dân xã lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2023 - 2028, Hội Nông dân xã Thiệu Trung sẽ tiếp tục phát động phong trào thi đua, như: Đẩy mạnh phong trào thu gom rác thải, đảm bảo vệ sinh môi trường tại các khu di tích và khu dân cư. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, giảm nghèo bền vững; tuyên truyền, vận động hội viên phát triển mô hình trồng cây ăn quả trong nhà lưới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các trang trại… xây dựng Hội vững mạnh toàn diện, xứng đáng với xã nông thôn mới kiểu mẫu.

Nguyễn Thị Hà

Phó Trưởng BTG Huyện ủy

THÔNG TIN - TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

XÃ THIỆU NGUYÊN

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI NÂNG CAO

Về xã Thiệu Nguyên hôm nay, đời sống người dân được nâng lên rõ rệt, kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư xây mới, cảnh quan môi trường được chỉnh trang xanh, sạch, đẹp... Trong xã đã xuất hiện một số mô hình làm kinh tế hiệu quả, cách làm hay, sáng tạo, như: Tổ hợp tác sản xuất bánh lá răng bừa của gia đình anh Nguyễn Lệnh Hưng và chị Nguyễn Thị Hiệu đang tạo việc làm cho hơn 10 lao động; là tổ hợp tác sản xuất bánh bảo đảm nghiêm ngặt vệ sinh an toàn thực phẩm; bánh lá răng bừa mang nhãn hiệu “Hưng Ân” đã được chứng nhận sản phẩm hàng hóa đạt OCOP 3 sao đầu năm 2022 và được hưởng cơ chế hỗ trợ của huyện và xã. Hội Liên hiệp Phụ nữ xã đã bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, đăng ký với cấp ủy thực hiện trồng và chăm sóc các tuyến đường hoa, cây xanh, quản lý một tuyến đường tự quản, đã kết nối, vận động con em xa quê đóng góp công sức cùng với hội viên phụ nữ xã xây dựng các tuyến đường hoa, cây xanh gần 4km, trị giá hơn 130 triệu đồng, góp phần thực hiện tiêu chí môi trường.

Để phấn đấu xã đạt Nông thôn mới nâng cao, Đảng ủy xã Thiệu Nguyên đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 26-NQ/ĐU ngày 25/10/2021 về việc tăng cường lãnh đạo của cấp ủy Đảng về xây dựng xã đạt chuẩn NTM nâng cao năm 2022, chỉ đạo HĐND xã ban hành chính sách hỗ trợ kích cầu để tạo điều kiện thuận lợi cho các thôn, hộ gia đình tham gia thực hiện các tiêu chí, như: Hỗ trợ thôn đạt tiêu chí NTM kiểu mẫu năm 2022 là 50 triệu đồng/thôn; xây dựng nhà sạch, vườn mẫu 10 triệu đồng/vườn; lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng 2 triệu đồng/cây cột (từ 35 đến 40m/cột)… Thông qua các chính sách kích cầu của huyện và xã, đã có thôn Nguyên Thắng và thôn Nguyên Sơn về đích thôn NTM kiểu mẫu. Cùng với hỗ trợ các thôn xây dựng Nông thôn mới kiểu mẫu, xã có chính sách hỗ trợ kích cầu các thôn trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn nhằm sớm hoàn thành các tiêu chí xã NTM nâng cao theo kế hoạch đề ra. Trong xã đã có một số hộ nông dân mạnh dạn đầu tư sản xuất theo mô hình công nghệ cao trong nhà màng với diện tích 2.000m2; trồng 10ha chuối bán lá. Toàn xã hiện có 303 cơ sở hộ sản xuất kinh doanh các lĩnh vực: tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại, xây dựng, vận tải, may mặc và các ngành nghề khác. Có 8 công ty, doanh nghiệp đang hoạt động tạo nhiều việc làm cho lao động. Năm 2022, thu nhập bình quân đầu người toàn xã đạt 55 triệu đồng. Hộ nghèo đa chiều giảm còn 76 hộ, chiếm tỷ lệ 3,49%. Về xây dựng kết cấu hạ tầng, xã đã đầu tư, nâng cấp 35 tuyến đường thôn, xóm, làm mới, rải nhựa một số tuyến giao thông đồng bãi, nội đồng, nội thôn, liên thôn, ngõ xóm theo hướng đồng bộ, nhiều tuyến đã lắp biển báo, biển chỉ dẫn, chiếu sáng, gờ giảm tốc; cứng hóa bê tông 10,4km đường trục chính nội đồng. Trong xây dựng xã NTM nâng cao, tổng nguồn vốn đã huy động đầu tư, xây dựng đạt hơn 73,7 tỷ đồng, trong đó 16,6 tỷ đồng vốn ngân sách xã, 46,1 tỷ đồng Nhân dân tự đầu tư xây dựng và đóng góp công trình công cộng (xây dựng nhà ở, chỉnh trang nhà văn hóa, làm kênh gom nước thải sinh hoạt, rãnh thoát nước; lắp đặt hệ thống nước sạch) và 11 tỷ đồng vốn đầu tư từ doanh nghiệp.

Để có được kết quả xây dựng thôn Nông thôn mới kiểu mẫu, xã Nông thôn mới nâng cao trong năm 2022, cùng với chính sách hỗ trợ kích cầu và vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của huyện, là sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của cấp ủy, điều hành của chính quyền, sự vào cuộc của MTTQ, các tổ chức đoàn thể, đặc biệt là xã đã phát huy vai trò chủ thể của người dân, con em xã quê, của doanh nghiệp để huy động nguồn lực và chung tay xây dựng Nông thôn mới đạt kế hoạch đề ra.

Ban Biên tập

LỊCH SỬ - VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT

ĐÌNH LAM VỸ

XÃ THIỆU VŨ, HUYỆN THIỆU HÓA

Đình Lam Vỹ hay còn gọi đền Lam Vỹ (vì đền thờ vị thần hoàng làng được lập từ thời Lý, còn ngôi đình 5 gian làm vào đời Lê ở phía trước đền, Nhân dân thường gọi là Đình, tức là tiền đường của ngôi đền). Lam Vỹ là tên gọi thời Lý, làng Lam Vỹ có tên gọi là A Vỹ Trang Phù Sa, thuộc huyện Lương Giang, Phủ Thiệu Thiên, Đạo Thanh Hoa, đến thời Lê, Nguyễn và ngày nay A Vỹ Trang được đổi thành Lam Vỹ.

Đình Lam Vỹ xưa kia được xây dựng trên một thân đất cao ở phía rìa trước làng, nơi thờ vị thần hoàng làng có tên gọi là Hoàng Tế, tên thật là Tá và tên họ là Cao. Theo thần phả và các tài liệu sưu tầm tại làng Lam Vỹ, thì thần Hoàng Tế (tức Cao Tá) mà quan Đại học sĩ Đông các viên Hàn lâm Nguyễn Bính chép vào năm 1577 là một nhân vật lịch sử có thật ở đời Lý, được sinh ra và lớn lên ở quê mẹ khu A Vỹ Trang Phù Sa (tức làng Lam Vỹ bấy giờ). Từ năm 16 tuổi, Cao Tá đã nổi tiếng khắp nơi về tướng mạo, tài cao, võ nghệ giỏi, đặc biệt là tài bơi, lặn, vượt sóng thì khó ai đọ nổi. Triều đình Nhà Lý biết tin đã mời ông về triều và trọng dụng.

Theo nội dung bản thần phủ, có thể khẳng định vị thần hoàng đình Lam Vỹ là một nhân vật lịch sử - một danh tướng anh hùng, một bậc đại công thần thời Lý đã có nhiều công lao đức độ với làng nước. Tước hiệu trong văn tế của nhân vật lịch sử này là “Dương cảnh thần hoàng cao quang, minh đức, đoan túc, anh uy hoàng đế hoặc Hoàng đế diễn phúc Thượng thượng đẳng phúc thần Đại Vương”.

Cũng qua thần phả và dân gian truyền lại thì đền thờ vị thần hoàng làng Lam Vỹ được xây dựng ngày sau khi ông mất (1018) và qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo ở các thời kỳ Lý - Trần - Lê - Nguyễn và đến nay chỉ còn lại 5 gian tiền đường mà nhân dân vẫn gọi là đình Lam Vỹ. Và đình Lam Vỹ, không phải chỉ hàm chứa nội dung lịch sử văn hóa, mà còn là di tích cách mạng rất tiêu biểu. Rất nhiều sự kiện lịch sử của thời kỳ cách mạng (1930 - 1945, 1946 - 1954) rất quan trọng và đáng nhớ đã diễn ra tại ngôi đình Lam Vỹ này.

Giai đoạn 1930 - 1935: Đình Lam Vỹ đã trở thành địa điểm để những cán bộ cộng sản đầu tiên tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng. Các hội bạn, hội phe, hội giáp và tổ chức nông hội đỏ thường thông qua việc đến đình tế lễ để gặp gỡ và tuyên truyền vạch mặt bọn cường hào sâu mọt và kêu gọi tình tương thân, tương ái giúp đỡ nhau trong đời sống, sinh hoạt như: ốm đau, làm nhà, ma chay, cưới hỏi…

Giai đoạn 1936 - 1939: Nhiều cán bộ và hội tương tế ái hữu đã biến sự sinh hoạt tín ngưỡng tại đình Lam Vỹ để tổ chức hội họp và tuyên truyền cách mạng. Đặc biệt có một cuộc huy động 200 hội viên tương tế ái hữu và quần chúng đến đình Lam Vỹ để thống nhất đấu tranh và hành động ngay việc gặt 3 mẫu lúa và thu 3 mẫu ngô của tên phó tổng Lê Ngọc Chấn vì đã chiếm đoạt công tiền thổ của làng khi còn làm lý trưởng. Lúa và ngô thì xung vào công quỹ chung của cả làng, còn ruộng đất mà tên phó tổng chiếm đoạt thì chia cho dân. Cuộc đấu tranh kinh tế hợp phát này thắng lợi đã có tác dụng làm cho quần chúng càng thêm tin tưởng, ủng hộ Đảng và cách mạng.

Giai đoạn 1940 - 1941: Đình Lam Vỹ là nơi luyện tập của lực lượng tự vệ phản đế, là nơi gặp gỡ liên lạc của nhiều cán bộ cách mạng trong và ngoài địa phương. Thời kỳ Việt Minh và tổng khởi nghĩa là thời kỳ diễn ra rất sôi động. Tổng phù chẩn là một trong những địa phương có phong trào cách mạng nhất tỉnh. Đình Lam Vỹ đã trở thành trung tâm của các cuộc mít tinh, hội họp, tuyên truyền cách mạng. Các đoàn thể cứu quốc như thanh niên, phụ nữ, phụ lão và lực lượng tự vệ đã biến đình Lam Vỹ trở thành nơi sinh hoạt và tổ chức đấu tranh. Các đồng chí cán bộ cách mạng chủ chốt của tỉnh, huyện, tổng như: đồng chí Lê Chủ, Lê Tất Đắc, Trịnh Ngọc Điệt, Hoàng Tiến Trình, Hoàng Xuân Phong, Ngô Thức, Ngô Ngọc Toản và các đồng chí cán bộ nữ xuất sắc… đã rất gắn bó cuộc đời hoạt động của mình ở đình Lam Vỹ nay. Nơi đây không những là nơi tập luyện quân sự thường xuyên của đại đội tự vệ cứu quốc, mà còn là nơi tập trung các lực lượng cách mạng kéo xuống phủ lị để giành chính quyền về tay cách mạng. Và cũng chính nơi đây, quần chúng và các lực lượng cách mạng đã tổ chức biểu dương lực lượng và liên hoan chào mừng thắng lợi của cách mạng.

Trong kháng chiến chống Pháp: Đình Lam Vỹ là nơi tập trung huy động sức người, sức của cho tiền tuyến, nơi phát động các “Tuần lễ Vàng”, “Tuần lễ dân quân tự túc”, “Lúa khao quân”, công trái quốc gia, công phiếu kháng chiến, thuế nông nghiệp, dân quân, tòng quân vv..

Năm 1948, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Chính phủ về tại đình Lam Vỹ để truyền đạt chủ trương của Chính phủ với UBHC kháng chiến liên khu IV và UBHC kháng chiến tỉnh Thanh Hóa (khi đó đóng ở làng Lam Vỹ) để phát động việc xây dựng hậu phương và kháng chiến trường kỳ. Sau đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có cuộc nói chuyện với nhân dân Lam Vỹ và nhân dân các làng lân cận để kêu gọi mọi tầng lớp quần chúng đoàn kết một lòng ủng hộ kháng chiến.

Năm 1950 - 1951, trường quân chính liên khu IV và Sư đoàn 304 đã làm thêm một hội trường tại sân đình Lam Vỹ để mở các lớp huấn luyện quân sự, chính trị.

Trong 9 năm kháng chiến, đình Lam Vỹ thực sự đã trở thành một trung tâm sinh hoạt chính trị, nơi hội họp mít tinh, nơi phát động nhiều phong trào ủng hộ kháng chiến, không phải chỉ là nơi trung tâm sinh hoạt của làng, mà còn là trụ sở và địa điểm hoạt động kháng chiến của tỉnh, của khu. Vì vậy đình Lam Vỹ đã trở thành ký ức và kỷ niệm sinh động trong sự nghiệp cách mạng và kháng chiến của biết bao thế hệ cán bộ và lực lượng vũ trang Công - Nông - Binh, đồng thời chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng đầy ý nghĩa.

Có thể nói: Di tích đinh Lam Vỹ là một minh chứng hùng hồn cho vùng đất Lam Vỹ, là một vùng đất cổ có bề dày lịch sử. Từ thời Lý. Nhân dân cũng đã dốc lòng dốc sức xây dựng và phát triển làng xóm và tham gia cùng đất nước trong sự nghiệp chống xâm lược giành và giữ quyền độc lập tự chủ cho dân tộc.

Di tích lịch sử đinh Lam Vỹ là nơi sinh hoạt văn hóa tinh thân và tín ngưỡng thờ người có công với làng với nước đã trở thành niềm tự hào to lớn của Nhân dân địa phương. Không phải chỉ là của riêng làng Lam Vỹ, bởi đây còn là nơi ghi nhận những chiến công, những sự kiện lịch sử cách mạng của tỉnh, huyện, xã và những trang sử hào hùng giờ đây đọng lại tại ngôi đình như một chứng nhận, một tượng đài mãi mãi ngàn năm bất tử. Những nội dung và sự kiện lịch sử, và tất cả những kiến trúc còn lại hôm nay của đình Lam Vỹ thực sự có giá trị và ý nghĩa trên nhiều phương diện (Lịch sử - văn hóa - kiến trúc nghệ thuật - cách mạng, kháng chiến) rất đáng được công nhận, gìn giữ và phát huy tác dụng.

(Trích yếu: Lý lịch di tích LSVH - CM đình Lam Vỹ,

xã Thiệu Vũ, huyện Thiệu Hóa, năm 2000)

Mừng Đảng, mừng xuân

Thế là Đảng thấu lòng dân

Thế là hồng phúc bội phần Việt Nam

Thế là vận nước đang dâng

Niềm vui khôn xiết, nỗi mừng trào tuôn.

Vững tin bước tiếp chặng đường

Có người cầm lái can trường, trung kiên

Non sông một dải bình yên

Cờ bay Lũng Cú kết liền Trường Sa.

Đốt lò, thanh lọc chính - tà

Để dân tin Đảng, Đảng là của Dân

Đồng lòng, hợp sức đi lên

Ta nuôi khát vọng viết nên sử vàng.

Xuân về, nắng gọi mùa sang

Mừng Xuân, mừng Đảng hân hoan lòng người

Tương lai rực sáng chân trời

Niềm tin theo Đảng chói ngời trong ta.

Vững chân phanh, mạnh chân ga

Con tàu lướt sóng vượt qua thác ghềnh

Dân tin Đảng, Đảng vì Dân

Việt Nam vững bức trường thành ngàn năm

Nguyễn Hữu Thắng


6.jpg

BẢN TIN NỘI BỘ SỐ 01/2023

Đăng lúc: 10/02/2023 (GMT+7)
100%

3.jpg

HƯỚNG DẪN - CHỈ ĐẠO

“TRÍCH” NGHỊ QUYẾT SỐ 195-NQ/HĐND NGÀY 12/12/2022

CỦA HĐND HUYỆN “VỀ VIỆC HỖ TRỢ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI, ĐÔ THỊ VĂN MINH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NĂM 2023”

Ngày 12/12/2022, HĐND huyện đã ban hành Nghị quyết số 195-NQ/HĐND về việc hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng Nông thôn mới, đô thị văn minh; nội dung cụ thể như sau:

1.Hỗ trợ mua máy gieo mạ, máy cấy phục vụ sản xuất nông nghiệp

a) Đối tượng hỗ trợ:

Tổ chức (doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác), hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, phục vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện.

b) Điều kiện hỗ trợ:

- Máy cấy, máy gieo mạ mua mới; có hóa đơn theo quy định; Hợp đồng, Thanh lý hợp đồng mua bán, trong đó bên mua máy là đối tượng hỗ trợ.

- Có văn bản cam kết phục vụ trên địa bàn huyện tối thiểu 05 năm được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận.

c) Mức hỗ trợ:

Hỗ trợ 20% kinh phí mua máy, nhưng tối đa không quá 100 triệu đồng/01 máy.

d) Thời điểm nhận hỗ trợ:

Năm 2023, sau khi hoàn chỉnh hồ sơ.

2. Hỗ trợ mua thiết bị bay không người lái phục vụ sản xuất nông nghiệp

a) Đối tượng hỗ trợ:

Tổ chức (doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác), hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, phục vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện.

b) Điều kiện hỗ trợ:

- Được cấp có thẩm quyền cấp phép hoạt động theo quy định.

- Thiết bị mua mới; có hóa đơn theo quy định; Hợp đồng, Thanh lý hợp đồng mua bán, trong đó bên mua thiết bị là đối tượng hỗ trợ.

- Trọng lượng cất cánh định mức tối thiểu 40kg (bao gồm pin và bình chứa đầy vật tư nông nghiệp), bình chứa tối thiểu 15 lít, thời gian bay tối thiểu 7 phút (chế độ đầy tải và đến khi xả hết bình).

- Có văn bản cam kết phục vụ trên địa bàn huyện tối thiểu 05 năm, có xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã.

c) Mức hỗ trợ:

Hỗ trợ 20% kinh phí mua thiết bị, nhưng tối đa không quá 100 triệu đồng/01 thiết bị.

d) Thời điểm nhận hỗ trợ: Năm 2023, sau khi hoàn chỉnh hồ sơ.

3. Hỗ trợ xây dựng và chứng nhận sản phẩmOCOP

a) Đối tượng hỗ trợ:

Chủ thể có sản phẩm được công nhận sản phẩm OCOP.

b) Điều kiện hỗ trợ:

Chủ thể có sản phẩm được cấp có thẩm quyền đánh giá phân hạng sản phẩm OCOP năm 2023 đạt từ 3 sao trở lên.

c) Mức hỗ trợ:

- 50 triệu đồng/sản phẩm đạt chứng nhận 3 sao.

- 100 triệu đồng/sản phẩm đạt chứng nhận 4 sao.

- 400 triệu đồng/sản phẩm đạt chứng nhận 5 sao.

d) Thời điểm nhận hỗ trợ:

Sau khi được cấp có thẩm quyền ban hành quyết định công nhận sản phẩm OCOP, phân hạng sản phẩm.

4. Hỗ trợ sản xuất vụ Đông 2023 - 2024

a) Nội dung hỗ trợ:

- Hỗ trợ kinh phí mua giống sản xuất một số cây trồng.

- Hỗ trợ kinh phí thực hiện liên kết sản xuất.

- Hỗ trợ kinh phí chỉ đạo sản xuất vụ Đông năm 2023 - 2024.

b) Đối tượng hỗ trợ:

- Tổ chức (doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác), hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện.

- Ban chỉ đạo sản xuất vụ Đông các xã, thị trấn trên địa bàn huyện.

c) Điều kiện hỗ trợ và mức hỗ trợ: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trồng các loại cây vụ đông là ngô ngọt, ngô sinh khối mà diện tích sản xuất liền vùng, bảo đảm quy mô từ 03ha trở lên: Hỗ trợ 03 triệu đồng/01 ha.

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trồng ngô vụ đông trên đất hai lúa mà diện tích sản xuất liền vùng, bảo đảm quy mô từ 03ha trở lên đối với tổ chức hoặc từ 01 sào (500m2) trở lên đối với hộ gia đình, cá nhân: Hỗ trợ 01 triệu đồng/01 ha.

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trồng các loại cây vụ đông là khoai tây, ớt, đậu tương rau, bí đỏ mà diện tích sản xuất liền vùng, bảo đảm quy mô từ từ 02ha trở lên: Hỗ trợ 03 triệu đồng/01 ha.

- Hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình tổ chức sản xuất, liên kết bao tiêu sản phẩm các loại cây trồng vụ đông trên đất 02 lúa (ngô ngọt, khoai tây, ớt, đậu tương rau, bí đỏ) đảm bảo quy mô từ 03ha trở lên: Hỗ trợ 01 triệu đồng/01 ha.

- Ban chỉ đạo sản xuất vụ Đông các xã, thị trấn mà xã, thị trấn đó đạt chỉ tiêu huyện giao (từ 100% trở lên đối với từng loại cây trồng và từ 100% trở lên tổng diện tích): Hỗ trợ 200.000 đồng/01 ha.

d) Thời điểm nhận hỗ trợ:

Chậm nhất không quá 20 ngày kể từ ngày đoàn liên ngành của huyện kiểm tra.

5. Hỗ trợ đầu tư chỉnh trang, nâng cấp, mở rộng đường giao thông, tường rào, hệ thống điện chiếu sáng,di chuyểncột điện

a) Đối tượng hỗ trợ:

Ủy ban nhân dân xã xây dựng xã nông thôn mới nâng cao và các thôn xây dựng thôn nông thôn mới kiểu mẫu năm 2023 (theo Phụ lục 02, 04 của Kế hoạch 111-KH/BCĐ ngày 17/10/222 của Ban Chỉ đạo các các chương trình mục tiêu quốc gia huyện). Cụ thể:

- Ủy ban nhân dân xã: Thực hiện đầu tư xây dựng hệ thống đường xã, điện chiếu sáng (trên đường xã), di chuyển hệ thống cột điện trên địa bàn.

- Ban phát triển thôn: Thực hiện đầu tư xây dựng hệ thống đường thôn, điện chiếu sáng (trừ đường xã, đường ngõ, xóm); hệ thống tường rào của hộ gia đình phía tiếp giáp với đường giao thông trên địa bàn thôn.

b) Nội dung, điều kiện hỗ trợ:

- Đường giao thông: Các tuyến giao thông nông thôn đầu tư làm mới, nâng cấp đạt quy mô xây dựng nông thôn mới (Chiều dài tuyến giao thông đường xã tối thiểu 200m và đảm bảo chiều rộng mặt đường xã tối thiểu 4,5m; chiều dài tuyến giao thông đường trục chính thôn tối thiểu 100m và đảm bảo chiều rộng mặt đường tối thiểu 4,0m; mặt đường thảm bê tông nhựa dày tối thiểu 4cm, rãnh thoát nước có nắp đậy.

- Tường rào xây của hộ gia đình phía tiếp giáp với đường trục xã, đường liên xã, đường thôn được xây mới theo mẫu (mô hình, mẫu tường rào phù hợp thực tế, do Nhân dân bàn và lựa chọn).

- Đường điện chiếu sáng: Chiều dài tuyến tối thiểu đảm bảo 100m; cột điện bát giác, chiều cao 6m theo tiêu chuẩn, chiều dày thân cột đèn tối thiểu 3mm, khoảng cách giữa các cột từ 25m đến 40m, bóng đèn Led có công suất phù hợp với phạm vi chiếu sáng, tổng công suất tối thiểu 60W.

- Di chuyển cột điện hạ thế nằm trong lòng đường tại trục đường xã, đường trục chính thôn do nhân dân hiến đất mở đường: Đảm bảo cột điện sau khi di chuyển là cột bê tông ly tâm chiều cao cột tối thiểu 7,5m, vị trí lắp dựng cột mới sau khi di chuyển đáp ứng tiêu chí giao thông trong xây dựng xã nông thôn mới nâng cao, tiêu chí xã nông thôn mới kiểu mẫu.

c) Mức hỗ trợ:

- Đường giao thông: Hỗ trợ 250 triệu đồng/km đối với đường xã; 200 triệu đồng/km đối với đường trục chính của thôn.

- Tường rào: Hỗ trợ 150 triệu đồng/km (chiều dài tường rào).

- Đường điện chiếu sáng: Hỗ trợ 50 triệu đồng/km;

- Di chuyển cột điện hạ thế nằm trong lòng đường tại trục đường xã, đường trục chính thôn do nhân dân hiến đất mở đường: Ngân sách huyện hỗ trợ di chuyển cột điện tối đa 8 triệu đồng/vị trí cột nhưng không quá 50% chi phí xây dựng (không bao gồm chi phí tư vấn và chi phí khác).

d) Thời điểm nhận hỗ trợ:

- Ủy ban nhân dân cấp xã phải khảo sát, xây dựng kế hoạch chi tiết đối với các nội dung hỗ trợ (từng tuyến, dự kiến kinh phí...) đăng kí về Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt chậm nhất trong tháng 3/2023.

-Hỗ trợ 70% mức hỗ trợ ngay sau khi Kế hoạch được phê duyệt; 30% còn lại chậm nhất không quá 20 ngày (kể từ ngày đoàn liên ngành kiểm tra).

6.Hỗ trợkinh phí muaxi măngđầu tư kết cấu hạ tầng

a) Đối tượng hỗ trợ:

- Ủy ban nhân dân các xã xây dựng nông thôn mới nâng cao năm 2022 (theo Kế hoạch số 59-KH/BCĐ) chưa được tỉnh hỗ trợ kinh phí mua xi măng hoặc được hỗ trợ một phần (chưa đủ 1.000 tấn xi măng).

- Ủy ban nhân dân các xã xây dựng xã nông thôn mới nâng cao năm 2023 (theo Phụ lục 02 Kế hoạch 111-KH/BCĐ mà không được tỉnh hỗ trợ).

- Ban phát triển thôn (Các thôn nông thôn mới kiểu mẫu năm 2023 theo Phụ lục 02 Kế hoạch 111-KH/BCĐ).

b) Điều kiện hỗ trợ:

Hỗ trợ kinh phí mua xi măng đầu tư xây dựng nâng cấp, sửa chữa đường giao thông, xây dựng hệ thống rãnh thoát nước khu dân cư, trung tâm văn hóa xã, nhà văn hóa thôn, kênh mương nội đồng, chỉnh trang cảnh quan môi trường... hoàn thành yêu cầu theo Bộ tiêu chí xã nông thôn mới nâng cao, thôn nông thôn mới kiểu mẫu.

c) Mức hỗ trợ:

- Xã xây dựng xã nông thôn mới nâng cao năm 2022: Hỗ trợ 1.500 triệu đồng/xã tương đương 1.000 tấn xi măng/xã, nếu xã chưa được tỉnh hỗ trợ; nếu đã được tỉnh hỗ trợ nhưng chưa đủ 1.000 tấn, huyện hỗ trợ bổ sung kinh phí để mua đủ 1.000 tấn xi măng/xã.

- Xã xây dựng xã nông thôn mới nâng cao năm 2023: hỗ trợ 1.500 triệu đồng/xã, tương đương 1.000 tấn xi măng/xã.

- Thôn xây dựng thôn nông thôn mới kiểu mẫu: 150.000.000 đồng/thôn (Một trăm năm mươi triệu đồng)/thôn, tương đương 100 tấn xi măng.

d) Thời điểm nhận hỗ trợ:

Chậm nhất không quá 20 ngày kể từ khi nhận được văn bản đề nghị của xã (Kèm theo kế hoạch sử dụng xi măng: Công trình, khối lượng xi măng sử dụng, thời gian sử dụng).

7. Hỗ trợ xây dựng mô hình thôn thông minh

a) Đối tượng hỗ trợ:

Các thôn thuộc xã xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu năm 2022 và 2023.

b) Điều kiện hỗ trợ:

- Đảm bảo các quy định tiêu chí thôn thông minh tại Quyết định 35/2022/QĐ-UBND ngày 12/8/2022.

- Được Ủy ban nhân dân huyện đánh giá đạt và Sở Thông tin Truyền thông có văn bản thẩm định đạt yêu cầu.

- Có dự án xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số theo lĩnh vực lựa chọn được Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt.

c) Mức hỗ trợ:

50 triệu đồng/thôn.

d) Thời điểm nhận hỗ trợ:

Sau khi dự án hoàn thành, được nghiệm thu và đi vào sử dụng. (Chậm nhất không quá 20 ngày kể từ khi cơ quan có thẩm quyền công nhận).

8. Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng kết cấu tầng đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, nông thôn mớikiểu mẫu, tiểu khu kiểu mẫu năm 2023

a) Đối tượng hỗ trợ:

Xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, thôn đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, tiểu khu đạt chuẩn kiểu mẫu năm 2023.

b) Mức hỗ trợ:

- Xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu: 500 triệu đồng/xã.

- Xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao: 500 triệu đồng/xã.

- Thôn đạt thôn nông thôn mới kiểu mẫu: 100 triệu đồng/thôn.

- Tiểu khu kiểu mẫu: 100 triệu đồng/tiểu khu.

c) Thời điểm hỗ trợ:

Chậm nhất không quá 20 ngày kể từ khi cơ quan có thẩm quyền công nhận.

Nguồn kinh phí thực hiện Đề án phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh trên địa bàn huyện năm 2023, từ nguồn ngân sách huyện.

Ban Biên tập

TIN TỨC- SỰ KIỆN NỔI BẬT

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI, CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THÁNG 01 NĂM 2023

1. Tình hình kinh tế - xã hội

- Sản xuất nông nghiệp:Tập trung chỉ đạo thu hoạch 1.823ha đạt 93% diện tích cây trồng vụ Đông; tuyên truyền, hướng dẫn Nhân dân gieo cấy vụ Chiêm xuân trong khung thời vụ tốt nhất; các biện pháp kỹ thuật chăm sóc, chống rét cho mạ. Đến nay, tỷ lệ mạ đã gieo trên địa bàn toàn huyện là 100%; đã cấy 1.749ha (22%) cây rau màu khác đã gieo trồng 450ha (39%).

-Công tác xây dựng Nông thôn mới:Chỉ đạo các xã triển khai thực hiện xây dựng Nông thôn mới năm 2023. Tiếp tục phối hợp với các Sở, ngành cấp tỉnh thẩm định các tiêu chí cho 02 xã NTM nâng cao (Minh Tâm, Thiệu Phú). Tiếp tục chỉ đạo chỉnh trang cảnh quan, đảm bảo vệ sinh môi trường sáng, xanh, sạch đẹp, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán.

-Sản xuất công nghiệp - xây dựng và dịch vụ thương mại:Giá trị sản xuất ước đạt 168,8 tỷ đồng, tăng 11,3% so với cùng kỳ. Tập trung đôn đốc các nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án trọng điểm, khởi công mới các dự án theo KH đầu tư công năm 2022-2023. Trong tháng 01 thành lập mới 02 doanh nghiệp, đạt 2,5% kế hoạch. Đã thực hiện giải ngân vốn đầu tư công: vốn đầu tư ngân sách huyện từ nguồn tiền sử dụng đất dự toán giao 404 tỷ đồng, đã giải ngân 56 tỷ đồng, đạt 14% dự toán năm 2023.

-Công tác thu, chi ngân sách và quản lý tài nguyên, môi trường:Ước thu ngân sách tháng 01 năm 2023 là 4,03 tỷ, đạt 4% dự toán tỉnh giao, 1% dự toán huyện giao. Chi ngân sách tháng 01/2023 ước thực hiện 75,2 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 9% tỉnh giao, đạt 7% huyện giao, trong đó chi đầu tư phát triển ước thực hiện 42,3 tỷ đồng, đạt 19% tỉnh giao, đạt 8% huyện giao; chi thường xuyên ước thực hiện 32,87 tỷ đồng, đạt 6% dự toán cả năm. Hoạt động tín dụng vay sản xuất, kinh doanh và cho vay ưu đãi các đối tượng chính sách cơ bản đảm bảo phục vụ sản xuất kinh doanh.

Chỉ đạo tiếp tục thực hiện thực hiện thống kê diện tích đất đai năm 2022. Công tác giải phóng mặt bằng các dự án Nhà nước thu hồi đất được chỉ đạo quyết liệt, đến nay tiến độ GPMB các dự án trên địa bàn đảm bảo theo kế hoạch đề ra. Tổ chức đấu giá thành công 16 lô đất tại khu Bù Bà, thôn Đồng Bào; khu Đồng Bảy, thôn Đồng Minh xã Minh Tâm, số tiền thu được là 6,85 tỷ đồng.

- Lĩnh vực Giáo dục và đào tạo:Chỉ đạo các nhà trường trong toàn huyện thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ chuyên môn theo kế hoạch của ngành; tổ chức kiểm tra khảo sát chất lượng cuối kỳ I; hướng dẫn, kiểm tra công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục và tiến độ xây dựng trường chuẩn quốc gia. Kết quả thi học sinh giỏi lớp 9 cấp tỉnh đạt 74 giải, xếp thứ 5/27 huyện, thị, thành phố, trong đó: 02 giải Nhất, 21 giải Nhì, 27 giải Ba, 24 giải Khuyến khích.

- Lĩnh vực Văn hóa thông tin, thể dục thể thao:Tập trung tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; việc thực hiện Chỉ thị 13-CT/TU, ngày 01/12/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Chỉ thị 14-CT/HU, ngày 06/12/2022 của Ban Thường vụ Huyện ủy về tổ chức đón Tết Nguyên đán Quý Mão; tuyên truyền về phong tục tập quán tốt đẹp trong dịp Tết cổ truyền dân tộc và gương người tốt, việc tốt.

- Lĩnh vực y tế:Tiếp tục đẩy mạnh tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19 trên địa bàn huyện. Chỉ đạo các cơ sở y tế thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, trong tháng đã khám 15.254 lượt người, tăng 1,7% so với CK. Công tác y tế dự phòng được tăng cường, tuyên truyền phòng các loại dịch bệnh phát sinh ở thời điểm giao mùa, công tác quản lý vệ sinh ATTP được đảm bảo, đặc biệt trong dịp Tết Quý Mão và mùa Lễ hội Xuân năm 2023.

-Lĩnh vực Lao động - TBXH:Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo UBND huyện, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, phòng Lao động Thương binh và Xã hội, các xã, thị trấn chủ động, tăng cường nắm bắt, kiểm tra tình hình đời sống Nhân dân, chủ động thăm hỏi, động viên, hỗ trợ các hộ chính sách, người có công, hộ gặp hoàn cảnh khó khăn với 22.784 suất quà trị giá 9,72 tỷ đồng. Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo, phân công đoàn công tác đi thăm, kiểm tra tình hình sản xuất, đời sống Nhân dân và tặng quà các gia đình chính sách, cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa, cán bộ chủ chốt của huyện đã nghỉ công tác; viếng nghĩa trang liệt sỹ, đài tưởng niệm liệt sỹ huyện.

2. Công tác quốc phòng - an ninh

Triển khai các phương án trực sẵn sàng chiến đấu, trực phòng không dịp Tết Nguyên đán từ huyện đến cơ sở. Thường xuyên theo dõi nắm chắc tình hình địa bàn không để bị động, bất ngờ. Tổ chức đón nhận 188 quân nhân xuất ngũ trở về địa phương (quân đội 175 quân nhân; công an 13 quân nhân). Tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ Ban CHQS huyện và các xã, thị trấn, thôn đội trưởng, tiểu đội trưởng. Tổ chức phát lệnh gọi nhập ngũ cho công dân nhập ngũ vào công an, quân đội năm 2023; phối hợp chuẩn bị tốt cho Lễ giao quân năm 2023.

Lực lượng Công an từ huyện đến cơ sở tổ chức thực hiện nghiêm các nhiệm vụ, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh nội bộ, an ninh nông thôn, an ninh tôn giáo. Trong tháng, lực lượng công an huyện giải quyết 05 vụ việc liên quan đến an ninh trật tự. Tổ chức ra quân giải tỏa hành lang ATGT, ký cam kết không vi phạm đốt pháo, xây dựng các phương án đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm tai, tệ nạn xã hội.

Các cơ quan khối nội chính đã phối hợp triển khai các hoạt động trên lĩnh vực tư pháp, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án dân sự đảm bảo đúng các quy định của pháp luật. Hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tiếp tục được đẩy mạnh; Công tác tiếp công dân định kỳ tại trụ sở Ban tiếp công dân huyện được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định.

3.Công tác xây dựng Đảng,chính quyền, đoàn thể

-Công tác giáo dục chính trị tư tưởng: Chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức cơ sở đảng, các cơ quan đơn vị tuyên truyền các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng trong quý I năm 2023. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, gắn với kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2023) và mừng xuân Quý Mão. Phối hợp tổ chức kiểm tra nhận thức về Đảng cho 44 quần chúng. Chỉ đạo tuyên truyền, vận động các tập thể, cá nhân sưu tầm, hiến tặng các hiện vật, kỷ vật, tài liệu, văn bản để trưng bày tại khu Di tích Lịch sử Cách mạng - Trụ sở làm việc của cơ quan Tỉnh ủy tại xã Thiệu Viên.

-Công tác tổ chức,cán bộ:Ban Thường vụ Huyện ủy đã điều động, luân chuyển 08 cán bộ thuộc diện quản lý; thống nhất giới thiệu nhân sự, bổ nhiệm, kiện toàn các chức danh cho 05 cán bộ; cho thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đối với 01 cán bộ theo thẩm quyền. Chỉ đạo công tác đánh giá, xếp loại tổ chức cơ sở đảng và cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý năm 2022 theo quy định. Chỉ đạo Đại hội điểm Hội Nông dân và Công đoàn cơ sở, nhiệm kỳ 2023-2028. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ và chính sách cán bộ. Hoàn chỉnh hồ sơ xét kết nạp đảng cho 43 quần chúng và 146 hồ sơ huy hiệu đảng đợt 03/02/2023.

- Công tác kiểm tra, giám sát:Lãnh đạo, chỉ đạo UBKT Huyện ủy, giám sát thường xuyên theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ kiểm tra do cấp ủy giao. Xem xét xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên thuộc thẩm quyền quản lý. Công khai kê khai tài sản thu nhập các đồng chí diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý, báo cáo Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy theo quy định. Thẩm định nhân sự để giới thiệu bổ nhiệm một số chức danh cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý.

- Hệ thống dân vậntích cực tuyên truyền, vận động Nhân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương; chủ động nắm tình hình, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền giải quyết những vấn đề phát sinh, vướng mắc tại cơ sở trong dịp Tết Nguyên đán. Chỉ đạo ban hành kế hoạch về việc xây dựng mô hình “Chính quyền thân thiện vì nhân dân phục vụ”; phê duyệt Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ XDCS và thực hiện QCDC năm 2023. Tổ chức thăm chúc mừng các tổ chức tôn giáo nhân dịp Tết Quý Mão 2023. Tiếp tục rà soát vận động các hộ nghèo sinh sống trên sông đủ điều kiện đề nghị cấp đất ở, hỗ trợ kinh phí xây nhà ở.

- Hoạt động của HĐND - UBND huyệntổ chức thành công kỳ họp thứ 13, kỳ họp chuyên đề bổ sung kế hoạch đầu tư công năm 2023 và quyết định chủ trương đầu tư một số dự án. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để chỉ đạo, điều hành nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền; quan tâm chăm lo đời sống nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán Quý Mão. Chỉ đạo thu hoạch vụ Đông, gieo trồng vụ Chiêm Xuân đảm bảo đúng lịch thời vụ.

-Ủy ban Mặt trận Tổ quốcphối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, các ngành kêu gọi, vận động các các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần tương thân, tương ái giúp đỡ các gia đình nghèo, các đối tượng yếu thế trong xã hội đảm bảo để mọi người, mọi nhà đều được vui Xuân đón Tết.Liên đoàn Lao động huyệntập trung chỉ đạo tổ chức đại hội công đoàn cơ sở nhiệm kỳ 2023-2028; tổ chức “Tết sum vầy - Xuân gắn kết” trao 190 suất quà trị giá 247 triệu đồng cho đoàn viên, người lao động có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.Hội Cựu chiến binh các cấpchỉ đạo các chi hội cơ sở tăng cường vận động hội viên và các gia đình có con, em lên đường nhập ngũ, hoàn thành nghĩa vụ quân sự của công dân góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện; đã triển khai thực hiện mô hình trồng cây mắt ngọc, trước hết ở 5 xã Thiệu Toán, Thiệu Chính, Thiệu Hòa, Tân châu, Thiệu Thịnh.Hội Liên hiệp Phụ nữchỉ đạo trồng thêm được 7,7km đường hoa; vận động xây dựng 73 mô hình nhà sạch - vườn đẹp; phối hợp với Hội LHPN tỉnh và Công ty Bia Hà Nội - Thanh Hóa trao 01 nhà “Mái ấm tình thương” trị giá 50 triệu đồng cho 01 hội viên khó khăn tại Thiệu Công.Hội Nông dânchỉ đạo tổ chức Đại hội điểm Hội Nông dân xã Thiệu Trung; tiếp tục phối hợp dịch vụ phân bón chậm trả cho bà con nông dân sản xuất vụ Chiêm - Xuân 2023; phối hợp với Hội Nông dân tỉnh trao 01 nhà “Tình nghĩa nông dân” tại xã Thiệu Hòa.Huyện Đoànđẩy mạnh tuyên truyền trong ĐVTN về những hành vi liên quan đến sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng pháo, các vật liệu nổ bị cấm; quán triệt triển khai kế hoạch phát triển đảng viên và phối hợp rà soát đối tượng đoàn viên ưu tú giới thiệu cho tổ chức đảng xem xét bồi dưỡng tạo nguồn kết nạp đảng viên.

Trịnh Văn Đệ

HUV, Chánh Văn phòng Huyện ủy

BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG,ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI THÙ ĐỊCH

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN TỰ DO INTERNET Ở VIỆT NAM

Kể từ khi chính thức hòa mạng internet vào năm 1997, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là luôn tôn trọng và bảo vệ quyền phát triển của mỗi người dân, quyền được tự do thông tin, tự do internet. Việt Nam chỉ nghiêm cấm những hành vi lợi dụng hệ thống kết nối toàn cầu này để gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục, đồng thời xác định trong kỷ nguyên số, tự do internet là một trong những tiền đề quan trọng để phát huy dân chủ và phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Dù hòa mạng internet muộn hơn so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, tuy nhiên Việt Nam đã thu về nhiều thành tựu vượt bậc về tốc độ phát triển, là động lực quan trọng để thúc đẩy sự đi lên của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, được bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Tuy nhiên, vì mục đích riêng, vẫn có cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí cố tình phớt lờ mọi nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người, quyền tự do internet, đưa ra những đánh giá phiến diện, định kiến, sai sự thật, bỏ qua những điểm sáng, mặt tích cực để xếp Việt Nam nằm trong danh sách các quốc gia không có tự do internet.

Điển hình là Báo cáo thường niên Freedom on the Net 2022 (Tự do trên mạng 2022) được tổ chức Freedom House (FH) công bố ngày 18/10/2022, trong đó xếp hạng Việt Nam là một trong năm quốc gia kém tự do internet nhất trên thế giới.

Đây không phải là lần đầu tiên FH đưa ra những đánh giá phiến diện, tiêu cực, sai sự thật về vấn đề tự do, dân chủ tại Việt Nam. Ngày 2/6/2022, tổ chức này đã ra cái gọi là “Báo cáo bảo vệ nền dân chủ khi sống lưu vong” với nhiều nội dung xuyên tạc tình hình thực tế của Việt Nam, nổi lên là cáo buộc vô căn cứ “chính quyền đang tiến hành thực hiện đàn áp xuyên quốc gia nhằm bịt miệng người đấu tranh ngay cả khi họ rời quê hương”; “tiến hành tấn công mạng vào các tổ chức hỗ trợ người Việt tị nạn và thúc đẩy nhân quyền”. Vào tháng 3 năm nay, FH cũng xếp Việt Nam ở vị trí áp chót khu vực Đông Nam Á về mức độ tự do. Nhìn lại quá khứ, tổ chức này đã 7 lần liên tiếp cho rằng Việt Nam không có tự do internet.

Tự mô tả mình là “tiếng nói cho dân chủ và tự do trên toàn thế giới”, phương thức đánh giá, tiêu chuẩn xếp hạng của FH cũng như nhiều tổ chức nhân quyền khác lại hoàn toàn trái ngược với tuyên bố của họ. Các báo cáo của FH cho thấy tổ chức này không hề dựa trên các cuộc khảo sát, điều tra xã hội học tại các quốc gia được xếp hạng mà chỉ thu thập thông tin từ những nguồn thất thiệt, không chính thống.

Thêm vào đó, tiêu chí xếp hạng nhân quyền của FH chỉ dựa trên ý chí của một hoặc vài cá nhân, nhưng không hề có cơ sở khoa học. Thậm chí trong giai đoạn 1970-1988, nhiều nhà nghiên cứu và báo chí phát hiện ra rằng Giám đốc Freedom House, Raymond Duncan Gastil đã một mình soạn thảo các báo cáo thường niên Freedom in the World (Tự do trên thế giới) mà không hề có sự trao đổi, bàn bạc với các học giả, nhà nghiên cứu uy tín.

Sau khi tổ chức này thuê một nhóm chuyên gia khác thực hiện báo cáo, tình hình có được cải thiện nhưng FH vẫn vấp phải nhiều sự chỉ trích. Bởi lẽ, các định nghĩa, phương pháp luận của FH về dân chủ có mối liên hệ chặt chẽ với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.

Các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ thường được FH chấm điểm cao hơn so với các nước khác. Hơn nữa, theo ghi nhận của Sarah Sunn Bush, báo cáo của FH có ý nghĩa quan trọng, là nguồn tham khảo với các nhà lập pháp và chính trị gia Hoa Kỳ. Bởi vậy, các quốc gia yếu thế đang tìm kiếm sự hỗ trợ hoặc ưu ái của Hoa Kỳ buộc phải có những động thái mỗi khi FH tung ra các báo cáo mới.

Trên thực tế, không riêng Việt Nam, nhiều quốc gia trên thế giới đã từng gay gắt phản đối các báo cáo về tình hình nhân quyền của FH như Cuba, Trung Quốc, Nga, Sudan, Uzbekistan,… Chẳng những vậy, nhiều tổ chức xã hội dân sự tại Hoa Kỳ cũng thường xuyên lên án FH.

Ngày 16/2/2018, trên website chính thức của mình, tổ chức The Heritage Foundation nhận định: “Không có lý do gì khiến những người theo chủ nghĩa bảo thủ ở Hoa Kỳ và khắp phương Tây phải quan tâm đến các báo cáo của Freedom House vì chúng không khác biệt với những tuyên truyền của Tổ chức Ân xá quốc tế, Tổ chức Theo dõi nhân quyền hoặc các nhóm bình phong của George Soros (tỷ phú người Mỹ gốc Hungary, người bị cáo buộc thường xuyên tài trợ cho các tổ chức nhân quyền vì động cơ chính trị và đảng phái)”.

Tại Việt Nam, tháng 3/2021, hàng chục nghìn tài khoản facebook đã truy cập vào fanpage của FH để phản đối tuyên bố “Việt Nam không có tự do internet” do tổ chức này đưa ra. Trong đó, nhiều người đã thẳng thắn đề xuất FH nên để cho chính người Việt Nam chấm điểm về tự do trên internet của đất nước mình. Dù vậy, FH đã bỏ ngoài tai những yêu cầu chính đáng của nhân dân Việt Nam để tiếp tục tung ra các luận điệu xuyên tạc sự thật qua những báo cáo mới đây.

Cách đây khoảng ba thập kỷ, việc hòa mạng internet từng là “thử thách rất lớn trong quá trình đổi mới bởi đây là vấn đề rất nhạy cảm” (theo nhận định của ông Mai Liêm Trực, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện). Bởi lẽ, quá trình đưa internet vào Việt Nam không chỉ đòi hỏi sự nâng cấp đáng kể về mặt cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mà còn yêu cầu sự đổi mới tư duy của nhà làm luật.

Tại thời điểm ấy, còn tồn tại nhiều luồng ý kiến e ngại về việc hòa mạng toàn cầu có thể dẫn đến nguy cơ gây mất an ninh quốc gia. Mặc dù vậy, trong giai đoạn 1997-2008, bất chấp nhiều khó khăn, thiếu thốn và hạn chế khi mới hòa mạng toàn cầu, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm và phát huy quyền tự do của người sử dụng dịch vụ internet. Tiêu biểu như Nghị định số 55/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/8/2001 về Quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet đã khẳng định không ai được ngăn cản quyền sử dụng hợp pháp các dịch vụ internet (Điều 9).

Hay Nghị định số 97/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28/8/2008 về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet đưa ra hàng loạt chính sách phát triển internet quan trọng như: khuyến khích việc ứng dụng internet trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội để nâng cao năng suất lao động; mở rộng các hoạt động thương mại; Thúc đẩy việc ứng dụng internet trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, trường học, bệnh viện, các cơ sở nghiên cứu, đưa internet đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; hỗ trợ cải cách hành chính, tăng tiện ích xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và bảo đảm an ninh, quốc phòng; Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp và sử dụng dịch vụ internet, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn pháp luật về internet.

Có biện pháp để ngăn chặn những hành vi lợi dụng internet gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục, vi phạm các quy định của pháp luật và để bảo vệ trẻ em khỏi tác động tiêu cực của internet; Phát triển internet với đầy đủ các dịch vụ có chất lượng cao và giá cước hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (khoản 1, 2, 3, 4 Điều 4 Nghị định).

Còn tại Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/7/2013 về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng nhấn mạnh người sử dụng internet có quyền được sử dụng các dịch vụ trên internet trừ các dịch vụ bị cấm theo quy định của pháp luật (khoản 1, Điều 10).

Bên cạnh đó, từ quan sát và phân tích sự tăng trưởng về lượng người sử dụng internet tại Việt Nam và thế giới, các nhà hoạch định chính sách, nhà lập pháp đã nhận ra mối liên hệ mật thiết giữa quyền tự do trên internet với quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền riêng tư trên không gian mạng,...

Từ đây, Quốc hội cùng các cơ quan chức năng đã tổ chức xây dựng các giải pháp pháp lý phù hợp nhằm bảo đảm các quyền này cũng như phòng, chống, ngăn chặn các hành vi lợi dụng tự do trên internet gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục. Đây là cơ sở để hình thành một hệ thống văn bản pháp luật tương đối hoàn chỉnh của Việt Nam về internet nói riêng, an ninh mạng nói chung như: Luật Viễn thông, Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng,...

Qua đó, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng được một hành lang pháp lý quan trọng, góp phần tạo ra một môi trường mạng lành mạnh, an toàn, phát huy quyền tự do, dân chủ của công dân. Song song với quá trình hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật phù hợp sự phát triển của internet tại Việt Nam, Chính phủ đã phê duyệt hàng loạt đề án phát triển internet với các chỉ tiêu phát triển cụ thể theo từng giai đoạn.

Theo Báo cáo mới đây của Bộ Thông tin và Truyền thông, trung bình cứ 100 người dân Việt Nam có 83 thuê bao internet di động, trong khi thuê bao cố định là 21. Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam 2022 của Bộ Công thương cho thấy người Việt dành 6 giờ 38 phút mỗi ngày để truy cập internet. Đây đều là những thống kê cao hơn mức trung bình của thế giới. Việt Nam cũng nằm trong nhóm các quốc gia có giá cước internet rẻ nhất thế giới. Hiện tại, Việt Nam có 1.952 trang thông tin điện tử tổng hợp và 935 mạng xã hội trong nước đã được cấp phép hoạt động, là những diễn đàn trực tuyến để người dân có thể tự do chia sẻ, bày tỏ thông tin, quan điểm cá nhân.

Thực tế nêu trên cho thấy quyền tự do trên internet tại Việt Nam luôn được bảo đảm, phát huy, trái với luận điệu xuyên tạc của một số cá nhân, tổ chức không thiện chí. Không những vậy, là một đất nước văn minh, dân chủ, tiến bộ và thân thiện, Việt Nam luôn sẵn sàng hỗ trợ và tạo điều kiện để các cá nhân, tổ chức quốc tế có thể tìm hiểu, nghiên cứu một cách trung thực, khách quan về công tác bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, bao gồm quyền tự do trên internet, tự do ngôn luận, tự do báo chí trên không gian mạng.

Ban Biên tập


HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUỐC PHÒNG TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

Trong di sản quân sự Hồ Chí Minh, tư tưởng về tăng cường, củng cố quốc phòng giữ một vị trí hết sức quan trọng, có mối quan hệ biện chứng và thống nhất với toàn bộ tư tưởng của Người.Trongnhiềubài nói,bàiviết củaHồ Chí Minhvề quân sự cho thấy,chưa khi nàoNgườitách rời quân sự với các lĩnh vực khác và coi quân sự độc lập “đơn thuần”, mặc dù đó là một lĩnh vực rất đặc thù. Đồng thời, Người luôn nhận thức sâu sắc và giải quyết thành công các mối quan hệ đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong xây dựng quân đội cách mạng.Luôn coi lợi ích của nhân dân là đối tượng, nên Người xác định mục tiêu của tăng cường, củng cố quốc phòng không chỉ bảo vệ Tổ quốc, mà còn bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ nhà nước cách mạng, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Người chỉ rõ: “Chế độ này là của ta, phải bảo vệ chế độ của ta. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là của ta, phải bảo vệ Nhà nước của ta. Ai xâm phạm đến Nhà nước của ta, đến chế độ ta, ta phải chống lại họ, bất cứbằng lời nói hay việc làm”.TrongTuyên ngôn độc lập, Người tuyên bố: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.

Hiện nay, thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo.Trong tình hình đó, chúng ta cần vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường, củng cố quốc phòng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó cần thực hiện một số nội dung trọng yếu sau đây:

Một là,tăng cường, củng cố quốc phòng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước.

Tăng cường, củng cố quốc phòng phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng là nguyên tắc bất di, bất dịch của cách mạng Việt Nam.Trong tình hình mới, sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội và sự nghiệp củng cố quốc phòng là nguyên tắc được hiến định trong Hiến pháp. Đồng thời, là bài học kinh nghiệm được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam khẳng định. Sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng được thực hiện bằng phương thức tổ chức sự lãnh đạo chặt chẽ, khoa học, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”; “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”.

Thường xuyêntuyên truyền, giáo dụcgiáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh vềcủng cố quốc phònglà vấn đề cần thiết, quan trọng trongxây dựngvàbảo vệ Tổ quốchiện nay.Đồng thời,đấu tranh chống lại những luận điệu phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp tăng cường củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Hai là,tăng cường, củng cố quốc phòng phải theo hướng tích cực, chủ động, toàn dân, toàn diện, ngày càng hiện đại.

Dựng nước đi đôi với giữ nước là một truyền thống quan trọng và là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam, được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo trong điều kiện mới. Người chỉ rõ: “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng”; “Vấn đề củng cố quốc phòng rất là quan trọng, chớ không phải hòa bình rồi là không cần củng cố quốc phòng”.

Luôn ý thức được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minhkhẳng định: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”. Như vậy, sức mạnh giữ nước vô địch chính là sức mạnh của toàn dân, cả quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa chứ không đơn thuần là sức mạnh quân sự, sức mạnh của các lực lượng vũ trang.

Xuất phát từ vị trí, vai trò của quần chúng Nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Toàn thể Nhân dân, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng và nghề nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự và ra sức ủng hộ chính quyền nhân dân, thật thà hợp tác với quân đội Nhân dân”; “Quân đội và công an phải dựa vào Nhân dân mới hoàn thành được tốt”. Chỉ có dựa trên nền tảng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, thì sự kết hợp giữa quân đội với công an mới tạo được thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân rộng lớn.

Cùng với công tác giáo dục, tuyên truyền và tổ chức Nhân dân tham gia có hiệu quả vào các hoạt động bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh coi sự đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo có ý nghĩa rất quan trọng trong tăng cường, củng cố quốc phòng.Người nhấn mạnh: Đoàn kết là để “diệt lũ ác ma”, để “đấu tranh giành lại thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”, để xây dựng xã hội mới tốt đẹp; “Các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ muôn người như một, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Chú trọng giúp đỡ đồng bào vùng cao và làm tốt công tác an ninh trật tự, củng cố quốc phòng”.Đoàn kết không phải là kêu gọi, hô hào chung chung, mà phải có mục tiêu, nội dung cụ thể, phải hướng vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng trong mỗi giai đoạn. Đoàn kết để xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân,toàn diện, từng bước hiện đại.

Nhà nước Việt Nam củng cố nền quốc phòng toàn dân không để đe dọa hoặc làm phương hại đến an ninh của bất cứ quốc gia nào. Đây là sự khác biệt lớn giữa nền quốc phòng Việt Nam với nền quốc phòng của một số quốc gia khác trên thế giới.

Theo đó, xây dựng lực lượng quốc phòng là xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị và các tổ chức khác trong đời sống xã hội; xây dựng các cộng đồng dân cư; xây dựng Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân, Dân quân tự vệ đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng.Xây dựng tiềm lực quốc phòng dựa trên nền tảng tổng hợp của các tiềm lực cơ bản như tiềm lực chính trị - tinh thần; tiềm lực kinh tế; tiềm lực khoa học công nghệ; tiềm lực quân sự. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân là việc tổ chức, triển khai, bố trí lực lượng và tiềm lực quốc phòng trên toàn bộ lãnh thổ theo ý định chiến lược thống nhất, bảo đảm đối phó thắng lợi mọi âm mưu và hoạt động xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia - dân tộc.

Nền quốc phòng Việt Nam củng cố theo hướng ngày càng hiện đại, nhưng kiên quyếtphản đối các hoạt động chạy đua vũ trang; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các quốc gia khác trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Đồng thời, Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế...

Ba là,tăng cường, củng cố quốc phòng phải gắn chặt chẽ với kinh tế, an ninh, đối ngoại và các lĩnh vực khác.

Từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thiết lập đến nay, quốc phòng, an ninh và đối ngoại luôn được kết hợp chặt chẽ.Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi”. Để có điều kiệnhuy động cho nhiệm vụ quốc phòngthì “cần phát triển sản xuất nông nghiệp và đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp; phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp, từng bước nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”.

Theo Hồ Chí Minh, quân đội phải tham gia xây dựng kinh tế để góp phần phát triển kinh tế, giảm bớt một phần đóng góp của Nhân dân.Đồng thời, Người yêu cầuphải “đẩy mạnh công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học và kỹ thuật một cách có trọng điểm, có từng bước vững chắc, nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ quốc phòng”.Đảng ta luôn xác định kết hợp quốc phòng, an ninh và đối ngoại là một nội dung trong phương hướng, nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.Quốc phòng và an ninh bảo đảm cho đất nước giữ được môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế, tạo điều kiện mở rộng hội nhập quốc tế, thực hiện hiệu quả đường lối đối ngoại. Thực hiện tốt quan hệ đối ngoại sẽ góp phần giữ vững môi trường hòa bình, khai thác các nguồn lực quốc tế để tăng cường quốc phòng, an ninh;tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân...

Theo đó,tăng cường củng cố quốc phòng phải đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhằm khai thác những yếu tố tích cực, hạn chế những nhân tố tiêu cực, góp phần to lớn vào việc bảo vệ chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Hoạt động đối ngoại cần mở rộng quan hệ song phương, đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực, góp phần làm thất bại âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch. Đồng thời, khắc phục những khó khăn về vốn, công nghệ, kỹ thuật, giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng.

Bốn là,tăng cường, củng cố quốc phòng có trọng tâm, trọng điểm và kiểm tra, giám sát chặt chẽ.

Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là:“bảo vệ vững chắc độclập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”. Tăng cường, củng cố quốc phòng của Việt Nam mang tính chất:“hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược”.

Do đó, tăng cường,củng cố quốc phòng toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm phải đi liền với kiểm tra, giám sát chặt chẽ, để không ngừng củng cố và xây dựng“một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại”.Tăng cường sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước trong kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; phòng, chống có hiệu quả tham nhũng, lãng phí. Tăng cường, thực hiện có nền nếp chế độ sơ kết, tổng kết, phát hiện những vấn đề nảy sinh, tìm tòi những con đường, biện pháp tối ưu để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.

Ban Biên tập

HỘI NÔNG DÂN XÃ THIỆU TRUNG

VỚI CÁC PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC

Nhằm phát động các cuộc thi đua yêu nước, đẩy mạnh xây dựng xã nông thôn mới kiểu mẫu, Hội Nông dân xã Thiệu Trung đã tập trung tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của Hội và của địa phương, đặc biệt là các chính sách liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Thông qua công tác tuyên truyền, vận động, đã khẳng định và phát huy vai trò chủ thể của hội viên, nông dân trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới. Với nhiều hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú, dễ tiếp cận, nội dung tuyên truyền ngắn gọn, xúc tích, dễ nghe, dễ hiểu, như: thông qua hội thi, hội nghị, tọa đàm, sinh hoạt câu lạc bộ, trên hệ thống loa truyền thanh, trên mạng xã hội… Phối hợp với các cơ quan báo, tuyên truyền các gương điển hình, các mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Cán bộ Hội thường xuyên bám sát cơ sở, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của hội viên, Nhân dân để có biện pháp hiệu quả trong công tác tuyên truyền, công tác tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Trong nhiệm kỳ qua, Hội Nông dân xã Thiệu Trung đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Hội Nông dân xã lần thứ VII và triển khai thực hiện nghị quyết đến 100% chi hội và hội viên nông dân; cụ thể hóa các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội thành các chương trình, kế hoạch hoạt động trọng tâm để triển khai thực hiện.

Công tác phát triển hội viên được Hội triển khai thực hiện phù hợp với tình hình nông dân trong giai đoạn hiện nay; Hội đã có biện pháp tập hợp hội viên thành các tổ, nhóm sản xuất, vay vốn, tiết kiệm, câu lạc bộ nông dân với pháp luật… Trong 5 năm qua, Hội đã kết nạp mới 135 hội viên. Đến nay, toàn xã có 875 hội viên tham gia sinh hoạt hội, chất lượng hội viên được nâng lên. 100% chi hội đạt khá và vững mạnh, không có chi hội yếu kém. Các chi hội đã thường xuyên duy trì, nâng cao hiệu quả sinh hoạt định kỳ, tổ chức sơ kết, tổng kết, thi đua khen thưởng kịp thời. Công tác xây dựng quỹ hội được quan tâm, có 100% chi hội xây dựng được quỹ hội do hội viên tự nguyện đóng góp, việc quản lý và sử dụng quỹ Hội thực hiện qui định theo nghị quyết của Đại hội đề ra. Hằng năm, căn cứ nhiệm vụ được giao, Hội đã xây dựng kế hoạch triển khai, phát động thi đua, giao chỉ tiêu cho từng chi hội và tổ chức đăng ký thi đua đến cán bộ, hội viên nông dân. Hàng năm và hàng kỳ, kịp thời khen thưởng, biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác hội và phong trào nông dân.

Trong nhiệm kỳ qua, Hội Nông dân xã Thiệu Trung luôn đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả “Phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp của chính quyền, Hội Nông dân xã đã tổ chức chỉ đạo phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, gắn kết với các phong trào khác ở địa phương, như: Phong trào xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư, xây dựng thôn kiểu mẫu, các chương trình giảm nghèo, xây dựng quĩ nhân đạo, từ thiện… Thông qua phong trào, đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh giỏi, có mức thu nhập từ 200 triệu đồng đến 3 tỉ đồng/năm và tạo nhiều việc làm cho người lao động.

Song song với các phong trào thi đua, Hội Nông dân xã còn làm tốt công tác vận động, hướng dẫn, hỗ trợ nông dân tham gia phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Tuyên truyền đến hội viên nông dân các mô hình kinh tế hợp tác, hộ sản xuất kinh doanh hiệu quả. Đã vận động chuyển đổi 09 đất lúa kém hiệu quả sang trồng các loại cây, vật nuôi có giá trị kinh tế cao hơn. Hội đã phát huy tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo của hội viên nông dân trong lao động sản xuất, vận động cán bộ, hội viên nông dân tích cực tham gia các hoạt động thiết thực, hiệu quả; như: đã vận động các hộ trồng 30 chậu hoa tuyến đường làng nghề và ao cá Bác Hồ; xây dựng mô hình và chăm sóc hoa tại khu lăng mộ Nhà Sử học Lê Văn Hưu; xây lắp hơn 100 bể chứa bao bì rác thải thuốc bảo vệ thực vật tại các xứ đồng; vận động các hộ hiến 355 mét vuông đất mở rộng đường giao thông nông thôn… Góp phần hoàn thành 15 tiêu chí xã NTM nâng cao và 03 thôn đạt NTM kiểu mẫu. Các hoạt động tư vấn, hỗ trợ, dịch vụ, dạy nghề cho nông dân đã được Hội quan tâm đổi mới và nâng cao hiệu quả. Trong nhiệm kỳ qua, Hội đã phối hợp với doanh nghiệp bán phân chậm trả cho nông dân được 180 tấn, tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi; thường xuyên tư vấn về việc làm và xuất khẩu lao động; đã giúp 04 hộ nông dân vay vốn xây dựng 04 dự án đạt hiệu quả cao, trong đó có 01 dự án nuôi ốc, 03 dự án nuôi bò sinh sản. Thông qua phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, hằng năm, đã bình xét 200 hộ đạt danh hiệu hộ sản xuất kinh doanh giỏi các cấp.

Công tác xây dựng Đảng luôn được Hội Nông dân xã Thiệu Trung quan tâm, chỉ đạo. Trong nhiệm kỳ qua, Hội đã bồi dưỡng, giới thiệu 01 hội viên ưu tú tham gia lớp cảm tình và đã kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Cán bộ Hội tham gia sinh hoạt Hội đều, nêu cao tinh thần tiên phong gương mẫu, dẫn đầu trong hoạt động của Hội, xứng đáng để hội viên nông dân noi theo. Với công tác đảm bảo an ninh trật tự địa phương, Hội cũng đã làm tốt công tác tuyên truyền, xây dựng những giải pháp cụ thể, như: Hỗ trợ cán bộ, hội viên, nông dân tham gia công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn trong mọi tình huống. Chủ động phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể, công an, quân sự tuyên truyền và thực hiện có hiệu quả xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, nâng cao ý thức tự giác, tự phòng ngừa, tự quản trong hội viên và nông dân. Duy trì và phát triển mô hình chi hội gắn với tổ an ninh tự quản, tuyến đường hội viên nông dân tư quản. Vận động con em hội viên thực hiện tốt Luật Nghĩa vụ quân sự, tích cực tham gia học tập, huấn luyện, tham gia lực lượng dân quân tự vệ, tích cực phòng chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội.

Phát huy thành tích, kết quả đã đạt được thời gian qua, để thiết thực lập thành tích chào mừng Đại hội Hội Nông dân xã lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2023 - 2028, Hội Nông dân xã Thiệu Trung sẽ tiếp tục phát động phong trào thi đua, như: Đẩy mạnh phong trào thu gom rác thải, đảm bảo vệ sinh môi trường tại các khu di tích và khu dân cư. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, giảm nghèo bền vững; tuyên truyền, vận động hội viên phát triển mô hình trồng cây ăn quả trong nhà lưới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các trang trại… xây dựng Hội vững mạnh toàn diện, xứng đáng với xã nông thôn mới kiểu mẫu.

Nguyễn Thị Hà

Phó Trưởng BTG Huyện ủy

THÔNG TIN - TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

XÃ THIỆU NGUYÊN

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI NÂNG CAO

Về xã Thiệu Nguyên hôm nay, đời sống người dân được nâng lên rõ rệt, kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư xây mới, cảnh quan môi trường được chỉnh trang xanh, sạch, đẹp... Trong xã đã xuất hiện một số mô hình làm kinh tế hiệu quả, cách làm hay, sáng tạo, như: Tổ hợp tác sản xuất bánh lá răng bừa của gia đình anh Nguyễn Lệnh Hưng và chị Nguyễn Thị Hiệu đang tạo việc làm cho hơn 10 lao động; là tổ hợp tác sản xuất bánh bảo đảm nghiêm ngặt vệ sinh an toàn thực phẩm; bánh lá răng bừa mang nhãn hiệu “Hưng Ân” đã được chứng nhận sản phẩm hàng hóa đạt OCOP 3 sao đầu năm 2022 và được hưởng cơ chế hỗ trợ của huyện và xã. Hội Liên hiệp Phụ nữ xã đã bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, đăng ký với cấp ủy thực hiện trồng và chăm sóc các tuyến đường hoa, cây xanh, quản lý một tuyến đường tự quản, đã kết nối, vận động con em xa quê đóng góp công sức cùng với hội viên phụ nữ xã xây dựng các tuyến đường hoa, cây xanh gần 4km, trị giá hơn 130 triệu đồng, góp phần thực hiện tiêu chí môi trường.

Để phấn đấu xã đạt Nông thôn mới nâng cao, Đảng ủy xã Thiệu Nguyên đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 26-NQ/ĐU ngày 25/10/2021 về việc tăng cường lãnh đạo của cấp ủy Đảng về xây dựng xã đạt chuẩn NTM nâng cao năm 2022, chỉ đạo HĐND xã ban hành chính sách hỗ trợ kích cầu để tạo điều kiện thuận lợi cho các thôn, hộ gia đình tham gia thực hiện các tiêu chí, như: Hỗ trợ thôn đạt tiêu chí NTM kiểu mẫu năm 2022 là 50 triệu đồng/thôn; xây dựng nhà sạch, vườn mẫu 10 triệu đồng/vườn; lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng 2 triệu đồng/cây cột (từ 35 đến 40m/cột)… Thông qua các chính sách kích cầu của huyện và xã, đã có thôn Nguyên Thắng và thôn Nguyên Sơn về đích thôn NTM kiểu mẫu. Cùng với hỗ trợ các thôn xây dựng Nông thôn mới kiểu mẫu, xã có chính sách hỗ trợ kích cầu các thôn trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn nhằm sớm hoàn thành các tiêu chí xã NTM nâng cao theo kế hoạch đề ra. Trong xã đã có một số hộ nông dân mạnh dạn đầu tư sản xuất theo mô hình công nghệ cao trong nhà màng với diện tích 2.000m2; trồng 10ha chuối bán lá. Toàn xã hiện có 303 cơ sở hộ sản xuất kinh doanh các lĩnh vực: tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại, xây dựng, vận tải, may mặc và các ngành nghề khác. Có 8 công ty, doanh nghiệp đang hoạt động tạo nhiều việc làm cho lao động. Năm 2022, thu nhập bình quân đầu người toàn xã đạt 55 triệu đồng. Hộ nghèo đa chiều giảm còn 76 hộ, chiếm tỷ lệ 3,49%. Về xây dựng kết cấu hạ tầng, xã đã đầu tư, nâng cấp 35 tuyến đường thôn, xóm, làm mới, rải nhựa một số tuyến giao thông đồng bãi, nội đồng, nội thôn, liên thôn, ngõ xóm theo hướng đồng bộ, nhiều tuyến đã lắp biển báo, biển chỉ dẫn, chiếu sáng, gờ giảm tốc; cứng hóa bê tông 10,4km đường trục chính nội đồng. Trong xây dựng xã NTM nâng cao, tổng nguồn vốn đã huy động đầu tư, xây dựng đạt hơn 73,7 tỷ đồng, trong đó 16,6 tỷ đồng vốn ngân sách xã, 46,1 tỷ đồng Nhân dân tự đầu tư xây dựng và đóng góp công trình công cộng (xây dựng nhà ở, chỉnh trang nhà văn hóa, làm kênh gom nước thải sinh hoạt, rãnh thoát nước; lắp đặt hệ thống nước sạch) và 11 tỷ đồng vốn đầu tư từ doanh nghiệp.

Để có được kết quả xây dựng thôn Nông thôn mới kiểu mẫu, xã Nông thôn mới nâng cao trong năm 2022, cùng với chính sách hỗ trợ kích cầu và vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của huyện, là sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của cấp ủy, điều hành của chính quyền, sự vào cuộc của MTTQ, các tổ chức đoàn thể, đặc biệt là xã đã phát huy vai trò chủ thể của người dân, con em xã quê, của doanh nghiệp để huy động nguồn lực và chung tay xây dựng Nông thôn mới đạt kế hoạch đề ra.

Ban Biên tập

LỊCH SỬ - VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT

ĐÌNH LAM VỸ

XÃ THIỆU VŨ, HUYỆN THIỆU HÓA

Đình Lam Vỹ hay còn gọi đền Lam Vỹ (vì đền thờ vị thần hoàng làng được lập từ thời Lý, còn ngôi đình 5 gian làm vào đời Lê ở phía trước đền, Nhân dân thường gọi là Đình, tức là tiền đường của ngôi đền). Lam Vỹ là tên gọi thời Lý, làng Lam Vỹ có tên gọi là A Vỹ Trang Phù Sa, thuộc huyện Lương Giang, Phủ Thiệu Thiên, Đạo Thanh Hoa, đến thời Lê, Nguyễn và ngày nay A Vỹ Trang được đổi thành Lam Vỹ.

Đình Lam Vỹ xưa kia được xây dựng trên một thân đất cao ở phía rìa trước làng, nơi thờ vị thần hoàng làng có tên gọi là Hoàng Tế, tên thật là Tá và tên họ là Cao. Theo thần phả và các tài liệu sưu tầm tại làng Lam Vỹ, thì thần Hoàng Tế (tức Cao Tá) mà quan Đại học sĩ Đông các viên Hàn lâm Nguyễn Bính chép vào năm 1577 là một nhân vật lịch sử có thật ở đời Lý, được sinh ra và lớn lên ở quê mẹ khu A Vỹ Trang Phù Sa (tức làng Lam Vỹ bấy giờ). Từ năm 16 tuổi, Cao Tá đã nổi tiếng khắp nơi về tướng mạo, tài cao, võ nghệ giỏi, đặc biệt là tài bơi, lặn, vượt sóng thì khó ai đọ nổi. Triều đình Nhà Lý biết tin đã mời ông về triều và trọng dụng.

Theo nội dung bản thần phủ, có thể khẳng định vị thần hoàng đình Lam Vỹ là một nhân vật lịch sử - một danh tướng anh hùng, một bậc đại công thần thời Lý đã có nhiều công lao đức độ với làng nước. Tước hiệu trong văn tế của nhân vật lịch sử này là “Dương cảnh thần hoàng cao quang, minh đức, đoan túc, anh uy hoàng đế hoặc Hoàng đế diễn phúc Thượng thượng đẳng phúc thần Đại Vương”.

Cũng qua thần phả và dân gian truyền lại thì đền thờ vị thần hoàng làng Lam Vỹ được xây dựng ngày sau khi ông mất (1018) và qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo ở các thời kỳ Lý - Trần - Lê - Nguyễn và đến nay chỉ còn lại 5 gian tiền đường mà nhân dân vẫn gọi là đình Lam Vỹ. Và đình Lam Vỹ, không phải chỉ hàm chứa nội dung lịch sử văn hóa, mà còn là di tích cách mạng rất tiêu biểu. Rất nhiều sự kiện lịch sử của thời kỳ cách mạng (1930 - 1945, 1946 - 1954) rất quan trọng và đáng nhớ đã diễn ra tại ngôi đình Lam Vỹ này.

Giai đoạn 1930 - 1935: Đình Lam Vỹ đã trở thành địa điểm để những cán bộ cộng sản đầu tiên tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng. Các hội bạn, hội phe, hội giáp và tổ chức nông hội đỏ thường thông qua việc đến đình tế lễ để gặp gỡ và tuyên truyền vạch mặt bọn cường hào sâu mọt và kêu gọi tình tương thân, tương ái giúp đỡ nhau trong đời sống, sinh hoạt như: ốm đau, làm nhà, ma chay, cưới hỏi…

Giai đoạn 1936 - 1939: Nhiều cán bộ và hội tương tế ái hữu đã biến sự sinh hoạt tín ngưỡng tại đình Lam Vỹ để tổ chức hội họp và tuyên truyền cách mạng. Đặc biệt có một cuộc huy động 200 hội viên tương tế ái hữu và quần chúng đến đình Lam Vỹ để thống nhất đấu tranh và hành động ngay việc gặt 3 mẫu lúa và thu 3 mẫu ngô của tên phó tổng Lê Ngọc Chấn vì đã chiếm đoạt công tiền thổ của làng khi còn làm lý trưởng. Lúa và ngô thì xung vào công quỹ chung của cả làng, còn ruộng đất mà tên phó tổng chiếm đoạt thì chia cho dân. Cuộc đấu tranh kinh tế hợp phát này thắng lợi đã có tác dụng làm cho quần chúng càng thêm tin tưởng, ủng hộ Đảng và cách mạng.

Giai đoạn 1940 - 1941: Đình Lam Vỹ là nơi luyện tập của lực lượng tự vệ phản đế, là nơi gặp gỡ liên lạc của nhiều cán bộ cách mạng trong và ngoài địa phương. Thời kỳ Việt Minh và tổng khởi nghĩa là thời kỳ diễn ra rất sôi động. Tổng phù chẩn là một trong những địa phương có phong trào cách mạng nhất tỉnh. Đình Lam Vỹ đã trở thành trung tâm của các cuộc mít tinh, hội họp, tuyên truyền cách mạng. Các đoàn thể cứu quốc như thanh niên, phụ nữ, phụ lão và lực lượng tự vệ đã biến đình Lam Vỹ trở thành nơi sinh hoạt và tổ chức đấu tranh. Các đồng chí cán bộ cách mạng chủ chốt của tỉnh, huyện, tổng như: đồng chí Lê Chủ, Lê Tất Đắc, Trịnh Ngọc Điệt, Hoàng Tiến Trình, Hoàng Xuân Phong, Ngô Thức, Ngô Ngọc Toản và các đồng chí cán bộ nữ xuất sắc… đã rất gắn bó cuộc đời hoạt động của mình ở đình Lam Vỹ nay. Nơi đây không những là nơi tập luyện quân sự thường xuyên của đại đội tự vệ cứu quốc, mà còn là nơi tập trung các lực lượng cách mạng kéo xuống phủ lị để giành chính quyền về tay cách mạng. Và cũng chính nơi đây, quần chúng và các lực lượng cách mạng đã tổ chức biểu dương lực lượng và liên hoan chào mừng thắng lợi của cách mạng.

Trong kháng chiến chống Pháp: Đình Lam Vỹ là nơi tập trung huy động sức người, sức của cho tiền tuyến, nơi phát động các “Tuần lễ Vàng”, “Tuần lễ dân quân tự túc”, “Lúa khao quân”, công trái quốc gia, công phiếu kháng chiến, thuế nông nghiệp, dân quân, tòng quân vv..

Năm 1948, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Chính phủ về tại đình Lam Vỹ để truyền đạt chủ trương của Chính phủ với UBHC kháng chiến liên khu IV và UBHC kháng chiến tỉnh Thanh Hóa (khi đó đóng ở làng Lam Vỹ) để phát động việc xây dựng hậu phương và kháng chiến trường kỳ. Sau đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có cuộc nói chuyện với nhân dân Lam Vỹ và nhân dân các làng lân cận để kêu gọi mọi tầng lớp quần chúng đoàn kết một lòng ủng hộ kháng chiến.

Năm 1950 - 1951, trường quân chính liên khu IV và Sư đoàn 304 đã làm thêm một hội trường tại sân đình Lam Vỹ để mở các lớp huấn luyện quân sự, chính trị.

Trong 9 năm kháng chiến, đình Lam Vỹ thực sự đã trở thành một trung tâm sinh hoạt chính trị, nơi hội họp mít tinh, nơi phát động nhiều phong trào ủng hộ kháng chiến, không phải chỉ là nơi trung tâm sinh hoạt của làng, mà còn là trụ sở và địa điểm hoạt động kháng chiến của tỉnh, của khu. Vì vậy đình Lam Vỹ đã trở thành ký ức và kỷ niệm sinh động trong sự nghiệp cách mạng và kháng chiến của biết bao thế hệ cán bộ và lực lượng vũ trang Công - Nông - Binh, đồng thời chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng đầy ý nghĩa.

Có thể nói: Di tích đinh Lam Vỹ là một minh chứng hùng hồn cho vùng đất Lam Vỹ, là một vùng đất cổ có bề dày lịch sử. Từ thời Lý. Nhân dân cũng đã dốc lòng dốc sức xây dựng và phát triển làng xóm và tham gia cùng đất nước trong sự nghiệp chống xâm lược giành và giữ quyền độc lập tự chủ cho dân tộc.

Di tích lịch sử đinh Lam Vỹ là nơi sinh hoạt văn hóa tinh thân và tín ngưỡng thờ người có công với làng với nước đã trở thành niềm tự hào to lớn của Nhân dân địa phương. Không phải chỉ là của riêng làng Lam Vỹ, bởi đây còn là nơi ghi nhận những chiến công, những sự kiện lịch sử cách mạng của tỉnh, huyện, xã và những trang sử hào hùng giờ đây đọng lại tại ngôi đình như một chứng nhận, một tượng đài mãi mãi ngàn năm bất tử. Những nội dung và sự kiện lịch sử, và tất cả những kiến trúc còn lại hôm nay của đình Lam Vỹ thực sự có giá trị và ý nghĩa trên nhiều phương diện (Lịch sử - văn hóa - kiến trúc nghệ thuật - cách mạng, kháng chiến) rất đáng được công nhận, gìn giữ và phát huy tác dụng.

(Trích yếu: Lý lịch di tích LSVH - CM đình Lam Vỹ,

xã Thiệu Vũ, huyện Thiệu Hóa, năm 2000)

Mừng Đảng, mừng xuân

Thế là Đảng thấu lòng dân

Thế là hồng phúc bội phần Việt Nam

Thế là vận nước đang dâng

Niềm vui khôn xiết, nỗi mừng trào tuôn.

Vững tin bước tiếp chặng đường

Có người cầm lái can trường, trung kiên

Non sông một dải bình yên

Cờ bay Lũng Cú kết liền Trường Sa.

Đốt lò, thanh lọc chính - tà

Để dân tin Đảng, Đảng là của Dân

Đồng lòng, hợp sức đi lên

Ta nuôi khát vọng viết nên sử vàng.

Xuân về, nắng gọi mùa sang

Mừng Xuân, mừng Đảng hân hoan lòng người

Tương lai rực sáng chân trời

Niềm tin theo Đảng chói ngời trong ta.

Vững chân phanh, mạnh chân ga

Con tàu lướt sóng vượt qua thác ghềnh

Dân tin Đảng, Đảng vì Dân

Việt Nam vững bức trường thành ngàn năm

Nguyễn Hữu Thắng


6.jpg

Từ khóa bài viết:

CÔNG KHAI TIẾN ĐỘ GIẢI QUYẾT TTHC

CHI TIẾT